KỈ NIỆM 70 NĂM NGÀY CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MÌNH VỀ NƯỚC (28/1/1941
– 28/1/2011)
THIẾU TƯỚNG LÊ QUẢNG BA – NGƯỜI BẢO VỆ LÃNH TỤ NGUYỄN
ÁI QUỐC VỀ PÁC BÓ
Kiều Mai Sơn
Tròn bảy mươi năm về trước, ngày 28/1/1941, Tết Tân
Tị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vượt cột mốc 108 biên giới Trung Quốc – Việt Nam địa phận thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng để về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người dẫn đường bảo vệ và đưa
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng đoàn cán bộ cách mạng gồm các đồng chí Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Lộc, Thế An, Đặng Văn Cáp về
nước ngày ấy là đồng chí Lê Quảng Ba.
Tôi đang loay hoay đi tìm thân nhân của Thiếu
tướng Lê Quảng Ba thì được ông Hoàng Văn Chương – con trai cụ Hoàng Văn Kiểu,
Uỷ viên Dự khuyết BCH Trung ương Đảng khóa III (1960), Bộ trưởng đầu tiên của
Bộ Lâm nghiệp (1976), Trưởng Ban
Dân tộc Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
của Chính phủ (1979 - 1982) – cho
biết: Cụ bà Lê Quảng Ba là hàng xóm với gia đình ông.
Vậy là tôi tìm đến khu tập thể Trung Tự quanh
co vào một chiều muộn.
Bà quả phụ Lê Quảng Ba tên thật
là Hoàng Thị Đào. Hai cụ cùng là người dân tộc Tày, cùng quê xã Sóc Hà,
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Trong căn buồng nhỏ trên gác hai, bên cạnh bàn thờ đặt di ảnh
Thiếu tướng Lê Quảng Ba rất giản dị,
trên tường là Huân chương Hồ Chí Minh của
cụ ông, bằng chứng nhận Có công với nước
của cụ bà và bức ảnh cụ bà tặng lại những kỉ vật của Thiếu tướng Lê Quảng Ba
cho Bảo tàng Quân sự. Năm nay đã sắp bước sang tuổi 90 nhưng cụ bà vẫn còn khỏe
mạnh và minh mẫn. Giọng quê hương bao năm không đổi thay, nhà cách mạng lão
thành Hoàng Thị Đào đã cung cấp cho tôi những tư liệu cần biết.
***
Vào tiết cuối năm Canh Thìn (1940), trời rét, Lê Quảng
Ba dẫn cả đoàn gồm 41 người được huấn luyện trong lớp quân sự của Trương Bội
Công (do Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm làm trợ giáo), đi gấp về phía biên giới. Qúa
trưa thì đoàn đã gần tới Lục Tùng cách Tĩnh Tây trên hai mươi cây số. Hai ngày
sau đoàn về đến vùng hoạt động cũ của các đồng chí Hà Quảng và được lệnh dừng
chân lại ở làng Nậm Quang và Ngàm Tẩy để tuyên truyền vận động quần chúng.
Gần một tháng sau Bác cũng về tới Nậm Quang. Tại đây đoàn
được dự một lớp huấn luyện chính trị do Bác đặt chương trình và trực tiếp chỉ
đạo. Các đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, biên soạn
chương trình và trực tiếp giảng dạy.
Nhớ lại ngày “Bác
Hồ về nước” Thiếu tướng Lê Quảng Ba đã kể lại cho nhà văn Hà Minh Tuân ghi
và được in trong tập hồi kí “Đầu nguồn”
(nhà xuất bản Văn học):
Vào kì 28-30 tết ở Nậm Quang, nhà nào cũng giết lợn.
Có ngày hai ba nhà cùng mời ăn; Bác đến thăm hỏi từng gia đình, nói chuyện thân
mật vui vẻ với người già bằng tiếng Pạc. Phong tục người Nùng ở Ngậm Tẩy không
để khách ngủ ở nhà từ đêm 30 tết đến trưa ngày mồng một, Bác khuyên anh em lên
lán ở. Ngày Tết người ta thường đưa tiền phong bao cho các cháu. Bác đã chú ý
sớm đến tục lệ này. Bác cho đổi sẵn tiền xu. Tết đến, tất cả các cháu ở hai
làng Nậm Quang, Ngàm Tẩy đều nhận được tiền phong bao của cán bộ Việt Nam, mỗi
gói một xu đồng.
Tôi không quên được những buổi chiều lành lạnh, cơm
nước xong, Bác ung dung dạo chơi với chúng tôi ở các nương sau làng. Trò chuyện
thân vui, thoải mái như cha con một nhà.
Bác hỏi thăm từng người, chăm chú lắng nghe tôi kể về
bước đầu giác ngộ cách mạng của tôi. Bác mỉm cười ngoảnh nhìn tôi âu yếm, khi
tôi kể lại buổi lễ tuyên thệ vào Đảng cách đây đã bảy năm, Bác hỏi:
- Thế ngày ấy chú có tin là cách mệnh rồi sẽ thành
công không?
- Cháu có tin nhưng thấy còn xa xôi lắm. Cháu cứ nghĩ:
chắc chắn mình sẽ được một phen sống mái với quân thù. Có thể mình chết mà chưa
nhìn thấy cách mạng thành công.
Lớp huấn luyện kết thúc vào ngày cuối năm, các đồng
chí Dương Hoài Nam (bí danh của Võ Nguyên Giáp) và Lâm Bá Kiệt (bí danh của
Phạm Văn Đồng) trở lại Tĩnh Tây. Năm đồng chí Phùng Chí Kiên, Thế An, Đặng Văn Cáp,
Hoàng Văn Lộc và Lê Quảng Ba được theo Bác từ Nậm Quang (Tĩnh Tây) về nước…
Tiết xuân trời đẹp.
Chúng tôi ăn cơm sớm ở Nậm Quang, chào bà con, rồi lên
đường.
Trong bộ quần áo chàm Nùng, Bác như gầy hơn. Ngước
nhìn gương mặt sạm sương gió của Người, lúc này tôi mới chỉ nhận thấy một dáng
vẻ ung dung, điềm tĩnh, rất thân quen.
Tôi dẫn Bác theo những vệt đường mòn, lượn giữa các
nếp núi tiếp nối nhau ở vùng biên giới hướng về Cao Bằng. Bác cầm một cây gậy
nhỏ nhưng chỉ khi xuống dốc Bác mới chống, chân Bác bước mau lẹ, dẻo dai như
một thanh niên.
Bác vừa đi đường vừa nói chuyện. Tôi kể lại với Bác
tin tức mới nhận được qua thư các đồng chí Cao Bằng mới gửi sang…
Vượt lên một đoạn dốc ngắn rồi xuống một sườn núi dài
lởm chởm đá, hoa lau dọc sườn núi phớt nâu rung rinh trong nắng. Đồng chí Lê
Quảng Ba đã nhận ra cây mậy rẫy (cây
si) xum xuê như một cây đa cổ thụ, mọc không xa mốc đá 108. Mốc đá như một tấm
bia, hai mặt có khắc chữ Trung Quốc và chữ Pháp.
Bác dừng lại cúi đọc những chữ khắc sâu trên đá. Rồi
Người hướng tầm mắt nhìn vọng hồi lâu về dải đất Tổ quốc trùng điệp… Bác dừng
lại một chút nữa bên một dãy ghế đá thiên nhiên có nhiều hình dạng. Người nhìn
sâu vào khoảng đất trời Tổ quốc biết bao đẹp đẽ nhưng đang đầy đau thương.
Người đã xúc cảm những gì, đã suy nghĩ những gì trong
giây phút lịch sử đó?
Đứng cạnh Bác trên cái mốc biên giới đã quen biết ấy,
nghĩ tới quê hương thân thiết ruột rà, tôi cảm thấy mình vô cùng gần gũi Bác
như đứa con yêu quý ở bên cha, như người chiến sĩ đứng sau lá cờ người tổng chỉ
huy sẵn sàng nhận lấy nhiệm vụ khó khăn nhất.
Từ cột mốc 108 nhìn về Nam chỉ thấy những ngọn núi
nhấp nhô.
Đồng chí Lê Quảng Ba dự định sẽ đưa Bác về ở tạm nhà
sàn của gia đình ông Máy Lì, người dân tộc Nùng, cơ sở cách mạng. Nhà ông đơn
sơ gồm hai gian nhỏ và một gian mới làm thêm. Đến trưa Bác tới nơi. Ông Máy Lì
ân cần đón tiếp Bác và cả đoàn. Bác ngồi uống nước, trò chuyện thân mật với ông
Máy Lì như một người nhà vừa đi xa về.
Chợt Bác quay sang đồng chí Lê Quảng Ba nói nhỏ:
- Ta nhiều người nên ở trong núi thôi.
Ông Máy Lì nghe rõ, liền năn nỉ:
- Cụ và các bác cứ ở nhà đây tiện hơn, không sao đâu
mà.
Bác mỉm cười với chủ nhà, tỏ ý cám ơn. Trong thâm tâm
mình, Bác thương gia đình ông Máy Lì, không muốn gia đình ông phải ở chật chội.
Bác nói có ý dứt khoát:
- Thôi, sáu sán! (tức ở rừng)
Không giữ được đoàn ở lại nhà mình, ông Máy Lì nói:
- Ở ngọn núi kề đây có hang kín đáo lắm, chỉ khi có
thổ phỉ chúng tôi mới chạy tới thôi.
Ông Máy Lì dẫn đoàn đi về phía hang núi. Leo lên một
đoạn đá lởm chởm thì mọi người đến cửa hang.
Đang trưa, nắng xuân. Nắng lọt qua các kẽ lá lọt vào
hang. Một cái hang nhỏ nhưng đủ chỗ ở cho mấy người. Gần kề vách hang trong nổi
lên một tháp đá thiên nhiên cao vượt đầu người; nuớc mưa bao năm đã mài gọt
phần ngọ tháp trở thành một nhũ đá trắng. (Ít hôm sau Bác tạc nhũ đá này thành
tượng Các Mác). Gió khô và lành lạnh vi vút cửa hang. Vào sâu trong hang không
khí ẩm hơn. Hang ăn thông ra một con đường kín dẫn sang bên kia biên giới.
Người ta gọi đó là hang Cốc Bó tức
hang Đầu nguồn. Bác bằng lòng ở tạm
đây.
Ông Máy Lì đem tới bốn tấm ván dài ngắn khấp khểnh, và
một tấm cót rách. Ván kê lên chỗ lõm phía trong, phía ngoài nền hang bằng phẳng
hơn, chúng tôi lót cót cắt lá mạy téc
rải đệm nằm cho đỡ lạnh và đỡ đau lưng. Tay chúng tôi rải lá mà lòng cứ chộn
rộn xót thương! Bác ra đi lúc đương thì trai tráng nay tóc Người đã có phần
bạc, mà chúng tôi không xếp đặt được cho Người một tấm giường êm, một mái nhà
ấm! Giữa khi ấy Bác từ dưới suối lên.
Bác gọi tôi bảo dẫn Bác và anh Phùng Chí Kiên đi xem
xét địa thế quanh hang. Bác lanh lẹ tươi tỉnh tưởng như không phải vừa đi bộ từ
sáng tới đây. Chúng tôi dừng lại bên bờ suối, rửa tay rửa mặt. Bác hồn nhiên
nói với hai chúng tôi:
- Mình vừa nẩy ra cái ý này: dòng suối của ta đẹp quá
trong xanh như ngọc ấy, lại bắt nguồn từ đây, nên đặt tên là suối Lê-nin. Còn
ngọn núi hùng dũng kia (Bác chỉ tay về phía sau bên trái) chúng ta gọi là núi
Các Mác, các đồng chí thấy có được không?
Anh Kiên và tôi cùng cười, tán thưởng ý kiến của
Bác.
***
Ngoài nhiệm vụ được đoàn thể cách mạng
giao cho là đưa lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc về
nước đầu năm 1941, Thiếu
tướng Lê Quảng Ba còn là người chịu trách
nhiệm nơi ăn, chốn ở, nơi họp và bảo vệ Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ VIII
do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì tại Khuổi Nặm,
(Pác Bó - Cao Bằng). Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
bức thiết của cách mạng Đông Dương. Theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt và Việt
Minh) “nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu
nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng
cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Chỉ sau bốn năm ngày ra đời, mặt trận Việt
Minh, với chính sách đại đoàn kết toàn dân, đã thực hiện được ước vọng của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh như trong bài thơ “Pác Bó hùng
vĩ” Người đã viết:
"Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lê nin, kia núi Mác,
Hai tay gây dựng một sơn hà”.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thiếu tướng Lê
Quảng Ba được tín nhiệm cử giữ nhiều nhiệm vụ trọng yếu: Khu trưởng Khu Hà Nội (nay là Tư lệnh Quân khu Thủ đô), Chỉ huy trưởng Mặt trận
Duyên hải Đông Bắc và vượt Thập Vạn Đại Sơn giúp Hồng quân Trung Quốc tiêu diệt quân Quốc Dân đảng giải phóng đất
nước và thành lập nước CHND Trung Hoa, Tư
lệnh Liên khu Việt
Bắc, Đại đoàn trưởng đầu tiên Đại đoàn 316, Tư lệnh Quân khu Việt Bắc… Năm
1960, ông chuyển ngành, làm Trưởng ban Ban Dân tộc Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban
Dân tộc của Chính phủ, rồi Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương.
Thiếu tướng Lê Quảng Ba là Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III
(1960), đại
biểu Quốc hội từ khóa II (1960) đến khóa VI (1976), Ủy viên Đoàn Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến thắng hạng nhất và nhiều
huân, huy chương cao quí khác./.
Tháng 2-1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh lên
thăm Cao Bằng, Bác về lại Pác Bó. Nói chuyện với nhân dân Cao Bằng, Người
mong muốn:
“Bác mong tỉnh Cao Bằng sớm trở thành một
trong những tỉnh gương mẫu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc cũng như trước đây Cao Bằng đã là một trong những tỉnh đi đầu trong công
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc…
Ít nhất Cao Bằng phải cao bằng nơi cao
nhất hay nhất, Cao Bằng phải cao không nơi nào bằng”.
|
Hà Nội, ngày 20-1-2011
ảnh 1: Bức họa
bảo vệ Bác về đến cột mốc 108, ngày 28/1/1941 tại Pác Bó (Cao Bằng).
ảnh 2: Cụ Hoàng
Thị Đào tức cụ bà Lê Quảng Ba
Tôi thân với Chiến thộn". Anh học khóa 3 nhưng xuống học với khóa 5. Bản tính dân tộc thật thà, được dạy gì làm đúng thế. Anh là tay ghi-ta ác-co cho ban nhạc Hòa-Quốc-Chiến. Khi trong quân ngũ là tay ít nói, chỉ hàng động. Từng lừng danh về việc đưa cả hệ thống ICS của Mỹ ra Bắc, kết nối thành hệ thống chỉ huy thông tin của ta mà không hề sai sót. Về đời thường sống giản dị, trông xe máy xe đạp kiếm sống.
Trả lờiXóaTiếc là uống R hơi nhiều, sau 1 tai nạn xe máy rồi mất. Thắp cho Chiến 1 nén nhang!