Ts.
Trần Kháng Chiến
Phó
Chủ tịch Hội Việt-Trung hữu nghị thành phố Hồ Chí Minh
Mùa hè 1950, theo thỏa thuận của Hồ Chủ tịch với Trung ương Đảng cộng sản
Trung Quốc và Mao Chủ tịch; Quân khu Vân Nam (do Đại tướng Trần Canh làm Tư lệnh)
đảm nhận việc bố trí cho Trường Lục quân Việt Nam sang đóng quân, bảo đảm cơ sở
vật chất để nhà trường tiến hành đào tạo cán bộ cho Quân đội nhân dân Việt Nam trong
điều kiện hòa bình, tại châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.
Thời kỳ đó, Vân Nam vừa mới được giải phóng, chính quyền nhân dân, Quân
khu Vân Nam còn muôn vàn khó khăn, song đã nỗ lực bảo đảm hậu cần, cử đội ngũ
cán bộ giàu kinh nghiệm trong chiến tranh cách mạng truyền đạt kinh nghiệm
chiến đấu, tổ chức chiến đấu cho giáo viên,
học viên của nhà trường…
Cha tôi, Thiếu tướng Trần Tử Bình, được Trung ương Đảng, Quân đội giao nhiệm vụ làm Chính ủy cùng Thiếu tướng
Lê Thiết Hùng, Hiệu trưởng, đưa Trường Lục quân Việt Nam sang Vân Nam.
Kí ức trẻ thơ
Lúc đó, tôi - một đứa trẻ chưa đầy 4 tuổi - được cha mang theo trong đội
hình hành quân của nhà trường, từ Chiến khu Việt Bắc sang Vân Nam. Dù còn rất
nhỏ nhưng từ những ngày ấy, tôi được tận mắt chứng kiến sự giúp đỡ chí tình của
nhân dân Trung Quốc cho nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp vô cùng gian khổ, mà trực tiếp là sự giúp đỡ cho Trường Lục quân Việt Nam
trong những năm tháng đóng quân trên đất Trung Quốc.
… Vào dịp nhân dân ta kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 4-2014, Nhà nước Việt Nam mời Đoàn thân nhân các gia
đình cán bộ được Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc cử sang giúp đỡ nhân dân
Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (Đại tướng Trần Canh;
Trưởng đoàn Cố vấn Trung Quốc - Đại sứ La Quý Ba; Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Vy
Quốc Thanh; gia đình Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn – Hồng Thủy…).
Hai Thiếu tướng Lê Thiết Hùng và Trần Tử Bình cùng đ/c Trương cố vấn, năm 1951 khi ở Côn Minh, Vân Nam. |
Khi đoàn vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi được Quân khu 7 mời tham gia tiếp khách. Tôi nói với Thiếu tướng Trần Tri Kiến - con trai Đại tướng Trần Canh, với các bạn Trung
Quốc rằng: “Từ 1950 đến 1954, với sự giúp đỡ của nhân dân, Quân giải phóng nhân
dân Trung Quốc, Trường Lục quân Việt Nam đóng tại Vân Nam đã đào tạo được 10
ngàn cán bộ cho các chiến trường, cho
các đại đoàn chủ lực, cho các chiến dịch, cho Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Cá nhân tôi là nhân chứng của sự chi
viện quý báu đó của nhân dân Trung Quốc cho nhân dân Việt Nam. Chiến thắng của
nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, vô cùng vinh quang có phần giúp đỡ
rất quý báu của nhân dân Trung Quốc. Chúng tôi luôn ghi nhớ sự giúp đỡ chí
tình đó”.
Cùng với việc Nhà nước Trung Quốc bố trí cho Trường Lục quân Việt Nam
đóng quân tại Vân Nam thì ngay sau Chiến dịch giải phóng biên giới, Chính phủ
Trung Quốc lại tiếp nhân, bố trí cho Khu học xá Trung ương (bao gồm các trường
Khoa học, Sư phạm, các trường phổ thông đến đóng tại thành phố Nam Ninh; học
sinh lên đến 5000 người).
Năm 1953, Chính phủ Trung Quốc lại tiếp nhận Trường Thiếu nhi Việt Nam
với hơn 1000 cán bộ, giáo viên, học sinh đến đóng tại Lư Sơn, sau đó chuyển về
thành phố Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.
Sau Chiến thắng
Điện Biên Phủ, mùa hè 1954, tôi được nhận vào
học tại Trường Thiếu nhi Việt Nam, đóng tại thành phố Quế Lâm.
Toàn thể chúng
tôi, các học sinh Việt Nam, được sống, học tập trong điều kiện hòa bình, được
bảo đảm vật chất tốt nhất. Trong giai đoạn đó, nhân dân Trung Quốc ăn chưa đủ
no, mặc chưa đủ ấm, nên sự giúp đỡ đó đặc biệt quý báu. Chúng tôi là những
người trực tiếp thụ hưởng sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc trong lĩnh vực giáo
dục dành cho nhân dân Việt Nam.
Năm 2003, chúng
tôi kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trường Thiếu nhi Việt Nam đóng tại Quế Lâm.
Nhìn lại, chúng tôi tự hào vì hơn 1000 học sinh của nhà trường đã có những đóng
góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Chúng tôi đều
tâm niệm, trong sự trưởng thành của toàn thể học sinh ngày ấy có công lao chăm sóc,
nuôi dưỡng, bảo vệ cho chúng tôi của nhân dân Quế Lâm, của nhân dân Trung Quốc.
Kỉ niệm về cha tôi, vị Đại sứ thứ 3 của
Việt Nam tại Trung Quốc
… Năm 1959, cha
tôi được Đảng, Nhà nước Việt Nam giao nhiệm vụ làm Đại sứ Việt Nam tại Trung
Quốc. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, ông cùng Đại sứ Trung Quốc Hà Vỹ có chuyến
công tác khảo sát các nông trường quân
đội tại Quân khu Tây Bắc, để chuẩn bị cho Hiệp định Trung Quốc giúp Việt Nam
xây dựng 12 nông trường. Cuối 1959, trên
cương vị Đại sứ, cha tôi đã cùng Bộ Nông khẩn Trung Quốc ký Hiệp định này.
Do có quan hệ
trong công tác từ thời kháng chiến chống Pháp, cha mẹ tôi có nhiều bạn thân
thiết là cán bộ trong Đoàn Cố vấn Trung Quốc, sau này họ là cán bộ Đại sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội như các đồng chí: Văn Trang, Lương Phong. Khi cha tôi làm Đại sứ tại Trung
Quốc, cha mẹ tôi có quan hệ rất thân
thiết với vợ chồng Đại sứ Hà Vỹ, sau đó là vợ chồng Đại sứ Chu Kỳ Văn.
Trong buổi lễ Trình Quốc thư lên Mao Chủ tịch, tháng 5/1959. |
Tháng 4-1959, cha
tôi sang Bắc Kinh nhận nhiệm vụ. Ông là Đại sứ Việt Nam được trình Quốc thư lên
Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Mao Trạch Đông. Mao Chủ tịch đã dành cho cha tôi và các cán bộ sứ quán ta
một buổi tiếp rất thân tình, như người một nhà. Ông vui vẻ bỏ qua các nghi thức
ngoại giao và cho biết, đây sẽ là lần cuối cùng ông nhận Quốc thư ngoại
giao trên cương vị Chủ tịch nước. Người
chúc cha tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần phát triển quan hệ hữu nghị anh em giữa hai nước.
Cha tôi là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam thứ 3 tại Trung Quốc. Nhiệm kỳ của ông kéo dài từ 1959 đến 1967. Trên cương vị này, ông đã
mang hết sức mình ra góp phần củng cố quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt - Trung.
Giai đoạn này là
giai đoạn nhân dân Việt Nam vừa xây dựng vừa chống chiến tranh phá hoại của
không quân Mỹ trên miền Bắc, vừa tiến hành cuộc chiến tranh chống Đế quốc Mỹ,
giải phóng miền Nam. Cha tôi nhiều lần
được thông báo trực tiếp cho Mao Chủ
tịch về tình hình chiến sự tại Việt Nam, những thắng lợi, khó khăn, các nhu cầu
của tiền tuyến.
Ông cùng Phó thủ
tướng Lê Thanh Nghị, Thứ trưởng Ngoại thương Lý Ban là những người trực tiếp
tham gia chuẩn bị các hiệp định giữa hai nhà nước Việt Nam và Trung Quốc, về
việc: phía Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam.
Cha tôi qua đời
vào tháng 2-1967 tại Hà Nội, khi đương
nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Trung Quốc, thọ
60 tuổi.
Xây dựng tình hữu nghị trường tồn
Năm 1965, Đế
quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,
hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam. Như bao thanh niên cùng thế hệ, tôi nhập ngũ,
tham gia chiến đấu chống Mỹ. Trong suốt cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ, những
người lính chúng tôi nhận được sự chi viện rất kịp thời, quý báu của nhân dân
Trung Quốc. Trang bị cá nhân của người lính từ chiếc ba-lô trên vai, cái mũ cối
đội đầu, đôi dép cao-su xỏ dưới chân, bộ quân phục ga-ba-đin vải Tô Châu khoác
trên người… đến khẩu súng AK, CKC rồi đạn dược, cả khẩu phần lương thực… đều do
nhân dân Trung QUốc giúp đỡ. Chúng tôi ghi nhớ điều đó.
Năm nay, nhân kỷ
niệm 40 năm Ngày kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nuớc (30-4-1975 -
30-4-2015), phóng viên Tân Hoa Xã thường trú tại thành phố Hố Chí Minh Đào Quân
có phỏng vấn tôi. Trong phần trả lời, tôi nói rằng: “Chúng tôi, thế hệ cựu
chiến binh trong chiến tranh chống Mỹ, luôn
luôn ghi nhớ sự giúp đỡ, chi viện
của nhân dân Trung Quốc cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam
có phần đóng góp quý báu của nhân dân Trung Quốc”.
Hiện nay, tôi
tham gia công tác của Hội Việt-Trung hữu nghị thành phố Hồ chí Minh. Với một
tình cảm chân tình với nhân dân Trung Quốc, tôi
mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào các hoạt động của Hội.
Tôi đã nhiều lần
tổ chức các đoàn của cựu giáo viên, cán bộ, học sinh Trường Thiếu nhi Việt Nam
tại thành phố Quế Lâm, Khu học xá Trung ương tại thành phố Nam Ninh trở về thăm
lại đất cũ trường xưa, thăm lại các giáo viên, cán bộ, bác sỹ, y tá đã chăm sóc
khi chúng tôi sống, học tập tại hai thành phố
của tỉnh Quảng Tây. Những lần gặp gỡ diễn ra rất cảm động, thắm đượm
tình người, thắm tình hữu nghị Việt –Trung.
Tại thành phố
Quế Lâm, trường Đại học Sư phạm Quang Tây đã nhận trách nhiệm làm “Ngôi trường cũ” của toàn thể giáo viên,
cán bộ, học sinh các nhà trường Việt Nam
từng học tập tại Quảng Tây từ năm 1951 đến năm 1975.
Trường Đại học Sư
phạm Quảng Tây đã xây dựng “Nhà kỷ niệm
các trường học Việt Nam”. Chúng tôi tham gia đóng góp nhiều tư liệu, hiện vật
cho ngôi nhà hữu nghị này. Trong ngày khánh thành công trình vào 15-5-2010, Phó
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự buổi lể long trọng, hữu nghị này.
Tôi cùng một
đoàn các cựu cán bộ, giáo viên, học sinh Việt Nam trở về thăm Quế Lâm sau ngày
khánh thành “Nhà kỷ niệm các trường học Việt Nam”. Lãnh đạo Đại học Ssư phạm
Quảng Tây tiếp đón chúng tôi rất nồng nhiệt. Các bạn Trung Quốc nhắc lại bài
phát biểu của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân có đoạn: “Sinh viên, học sinh
Việt nam học tập tại nhiều nước trên thế giới. Song, đây là Nhà lưu niệm các trường
học Việt Nam, các thế hệ học sinh Việt Nam đầu tiên, được xây dựng, nhằm gìn giữ, bảo tồn giá trị quan hệ hữu nghị Việt-Trung, tài sản vô giá cho nhân dân hai
nước. Tôi - một cựu học sinh Việt Nam từng sống, học tập tại thành phố Quế Lâm thời kỳ chiến
tranh chống Mỹ - xin cảm ơn nhân dân Quế
Lâm, đã giúp đỡ chúng tôi trong thời gian sống, học tập tại Quế Lâm. Xin cảm ơn
Đại học Sư phạm Quảng Tây đã xây dựng ngôi nhà thắm tình hữu nghị này”.
Nghe tin đoàn chúng
tôi đến thăm Đại học Sư phạm, một đoàn
các nam, nữ cựu chiến binh từng tham gia
“kháng Mỹ, viện Việt” tại thành phố Quế Lâm, Liễu Châu do hai cựu chiến binh Tạ
Hùng Uy, Phan Bản Ấm dẫn đầu, đã gặp gỡ, giao lưu cùng chúng tôi. Chúng tôi đã
cảm ơn các anh, các chị - những chiến sỹ
quốc tế đã sang Việt Nam tham gia
chiến đấu chống Mỹ, có những người đã hy sinh vì nhân dân Việt Nam. Nhân dân
Việt Nam luôn trân trọng ghi nhớ sự giúp đỡ đó và coi đó là di sản quý báu, là cơ sở
cho việc xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung.
Các cựu chiến
binh “kháng Mỹ, viện Việt” là những
người rất nhiệt tình tham gia các hoạt động xây dựng tình hữu nghị giữa nhân
dân hai nước Việt-Trung. Các anh chị đã nhiệt tình tham gia Cầu truyền hình hữu
nghị: Việt-Trung “Láng giềng gần” do Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền
hình Quảng Tây thực hiện.
Tháng 6-2013,
tôi có dịp gặp anh Tạ Hùng Uy tại Quế Lâm. Hai chúng tôi cùng nhau theo dõi chuyến thăm Trung Quốc
của Chủ tịch Trương Tấn Sang theo lời mời của Chủ tịch Tập Cận Bình. Tôi nói
với anh Tạ Hùng Uy: “Anh và tôi là hai
cựu chiến binh từng trải qua chiến tranh, chúng ta đã cùng nhau chống lại kẻ
thù chung, chúng ta là nhân chứng của
mối quan hệ hữu nghị Việt –Trung. Trong quá khứ có giai đoạn quan hệ Việt –Trung rất xấu. Hiện nay, giữa
hai nước vẫn còn vấn đề trên Biển Đông, chưa thể giải quyết trong ngày một ngày
hai, song chúng ta cần cùng nhau ủng hộ thỏa thuận của hai vị Chủ tịch được nêu
lên trong Tuyên bố chung Việt-Trung: các vấn đề chưa thống nhất sẽ được giải
quyết qua thương lượng, qua đường ngoại giao…”.
Khi nghe đến đoạn “Nhân dân Việt Nam, Trung Quốc cần cùng nhau có trách
nhiệm bảo vệ hòa bình, ổn định vì lợi ích của cả hai dân tộc”, anh Tạ Hùng Uy
ôm lấy tôi, biểu thị sự đồng cảm với suy nghĩ của tôi.
Vỹ thanh
Năm nay, kỷ niệm
65 năm ngày hai nước Việt Nam, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhìn
lại 65 năm quan hệ Việt –Trung, tôi tự hào vì cha chúng tôi - Đại sứ Trần Tử Bình - có hơn 14 năm (thời
kì (1950-1955) công tác tại Trường Lục quân Việt Nam và (1959-1967) - Đại sứ
Việt Nam tại Trung Quốc) sống, làm việc và gắn bó với đất nước Trung Hoa. Ông
có những đóng góp tích cực trong việc củng cố, xây dựng, phát triển quan
hệ hữu nghị Việt-Trung.
Là thế hệ con
cháu, ngày hôm nay anh em trong gia đình chúng tôi đang tích cực đóng góp vào
việc xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt-Trung.
Bài viết do 1 báo đặt nhân 65 năm quan hệ ngoại giao Việt-Trung.
Trả lờiXóaTheo cô Vũ Xuân Dung (từng công tác ở Sứ quán VN tại Bắc Kinh những năm 60): Trong ảnh lễ trình Quốc thư: Trái qua là các chú Tân Phong, Hà Quế (dịch giả Ruồi Trâu), Châu Thọ Thông (sau này là phó giám đốc Sở Ngoại vụ HN), Lê Bá Cấp (Cáp), Khánh Mỹ(?).
Trả lờiXóa