Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Chuyện thêm về vụ Trần Dụ Châu


VỤ ÁN TRẦN DỤ CHÂU – CHUYỆN CÒN ÍT BIẾT

Kiều Mai Sơn

Năm 1950, Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu bị tử hình. Chúng ta đều đã được biết qua các bài báo của nhà báo Hồng Hà (nguyên phóng viên báo Cứu Quốc), nhà báo Lưu Vinh… Qua đó, tác giả đã cho thấy sự trừng phạt nghiêm khắc của Hồ Chủ tịch đối với tội tham nhũng.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là tình tiết về sau của vụ án. Còn diễn biến điều tra bước đầu của vụ tham nhũng này được thực hiện ra sao, thì chưa có tài liệu nào nói tới.

Vị đại tá Cục truởng Cục Quân pháp
Cụ Phạm Trịnh Cán (1912-2003)
Trước đây, trong một lần đến thăm bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh[1], trưởng nữ của cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên (1905-1975), bà có cung cấp một tư liệu rất thú vị. Đó là lời kể của cụ Phạm Trinh Cán (Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục từ tháng 4-1953) kể về cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, tháng 3-1990.
Nhưng trước khi về Bộ Giáo dục, cụ Phạm Trinh Cán[2] nguyên là Đại tá, Cục trưởng Cục Quân pháp nên cụ nắm rõ quá trình tham gia điều tra ban đầu vụ Trần Dụ Châu. Bà Nữ Hạnh căn dặn: “Tôi tặng em để em sử dụng trên báo chí, có thể đưa vào mục những tư liệu mới được phát hiện”.

Cụ Phạm Trinh Cán sinh năm 1912, nguyên quán xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Gia đình có khả năng kinh tế nên cụ được học hết bậc Trung học. Dẫu có bằng Tú tài, cụ tự nhận là vẫn thấy mình còn dốt và rất muốn học thêm lên đại học. Học đại học thì phải tự túc nên vừa học khoa Luật trường Đại học Đông Dương cụ vừa đi dạy tư tại trường Trung học Tư thục Thăng Long cùng với các giáo sư Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... Cách mạng Tháng Tám 1945, cụ Phạm Trinh Cán tham gia khởi nghĩa và được cử làm Phó Chủ tịch UBND lâm thời tỉnh Quy Nhơn (nay là Bình Định).
Cụ được phong hàm đại tá đợt đầu tiên (năm 1948) và đã trải qua các chức vụ: Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Quân pháp – Bộ Quốc phòng, Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương, Phó Văn phòng rồi Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ (nay là Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội). Năm 1973 cụ Phạm Trinh Cán về nghỉ hưu. Cụ mất năm 2003 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Vụ án Trần Dụ Châu
Sinh thời, cụ Phạm Trinh Cán từng kể diễn biến vụ việc xảy ra từ năm 1949 đến mùa hè năm 1950 như sau:
Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám. Cục Quân nhu có nhiệm vụ lo ăn, mặc, thuốc men của quân đội. Quần áo cho quân đội, thuốc men trong nội thành ta chưa sản xuất được nên đơn vị quân nhu đóng ở Thái Nguyên ra vào thành cho dễ. Cục phó là Phạm Toàn, cốt cán cục Quân nhu là Lê Sĩ Cửu – trưởng phòng tiếp liệu (thuốc, giấy pơ-luya, máy chữ...).
Bấy giờ hoàn cảnh rất khó khăn. Về gạo ăn, mới kháng chiến nên anh em quân nhu chưa có kinh nghiệm bảo quản tốt, kho cất gạo dùng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều. Lúc bấy giờ, Cục Quân chính do ông Phan Tử Lăng làm Cục trưởng và Cục Quân pháp do ông Phạm Trinh Cán làm Cục trưởng - cùng đóng chung cơ quan ở Thái Nguyên, tổng cộng đến 30 người. Gạo lĩnh về không dám vo mạnh, chỉ rửa qua suối để về nấu ăn. Vì vo kỹ thì gạo sẽ tan biến theo nước. Để chống đói, bộ đội phải lấy măng rừng làm thức ăn, còn quân đội chủ lực phải ăn cháo để truy kích địch.
Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và tấm “chăn kháng chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng. Có chiến sĩ không có chăn, không có áo, đứng gác trên đèo phong phanh vải mỏng. Thuốc men thiếu thốn, nhất là thuốc sốt rét, qui-na-cơ-rin cũng không đủ chữa bệnh sốt rét dùng trong quân y. Vì thế uống qui-na-cơ-rin phải pha vào nước, chỉ có tác dụng tinh thần chứ chữa bệnh sốt rét rất hạn chế.
- Anh em đều thấm thía cảnh khổ, rồi than phiền, oán trách Cục Quân nhu làm không tròn nhiệm vụ. - Cụ chậm rãi - Càng oán trách hơn khi nghe ba thằng cha Châu, Cửu, Toàn sống sa hoa lắm. Chúng ăn toàn thứ ngon, rượu Tây, đường sữa, sô-cô-la trong Thành mang ra... Đặc biệt nổi đình đám  là đám cưới linh đình của Cửu làm xôn xao cả vùng Thái Nguyên! Bộ đội và nhân dân công phẫn. Chuyện đến tai Bộ Quốc phòng và Trung ương Đảng.
Một hôm, anh Trần Tử Bình – Thiếu tướng, Phó cục trưởng Cục Thanh tra quân đội - tìm tôi, hỏi: “Anh nghe tin tức gì về vụ Châu không?”. Tôi trả lời: “Tôi có nghe. Bộ đội công phẫn lắm”.
Xong, anh Bình nói với tôi về chỉ thị của Trung ương Đảng: “Ta phải mở cuộc điều tra về vụ này. Chỉ thị này tối mật. Ngoài mấy ông Trung ương, chỉ có tôi và anh biết. Nếu để lộ, Trần Dụ Châu mà dinh-tê vào thành thì chúng mình mất đầu”. (Vì Châu nắm vững nơi đóng quân, quân số, người chỉ huy, chính ủy... các đơn vị toàn quân).
Rồi anh Bình giao nhiệm vụ: “Anh tiến hành cuộc điều tra này”. (Phải mở ngoặc nói thêm, những vụ phạm pháp mức độ nào có thể là xử lý trong nội bộ thì Cục Thanh tra giải quyết. Nếu nặng thì chuyển sang Quân pháp).
Thế là tôi cử 1, 2 anh rất tâm phúc nghe ngóng tình hình Cục Quân nhu. Điều tra sơ bộ xong, anh em về báo cáo lên Trung ương. Sau khi được nghe báo cáo, anh Trần Tử Bình có hỏi tôi: “Theo điều tra sơ bộ như vậy, có thể truy tố ra Tòa án binh không?”. Tôi đã nói rằng: “Đáng truy tố theo tội trạng như vậy. Nhưng cần tiếp tục điều tra nữa để có thêm tài liệu, dẫn chứng cụ thể, để căn cứ mà kết tội”.
Ông Phạm Trinh Cán kể thêm: “Khi xử vụ Trần Dụ Châu, bắt Toàn trước, Cửu sau.
Trước khi điều tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt Phạm Toàn để lấy lời khai. Tạm giam Toàn để lấy khẩu cung tại nhà dân, giao cho bộ đội canh giữ. Tôi trực tiếp hỏi về vụ bê bối của Cục Quân nhu. Đêm ấy, Toàn tự tử bằng cách lấy cắp lựu đạn, mở chốt, úp mặt cho nổ.
Cửu cho bắt trước khi bắt Châu. Người ký giấy bắt Cửu, Toàn là tôi. Giam cạnh nhà đơn vị Cục Quân pháp đóng. Mấy ngày sau, Cửu cũng tự tử bằng cách bẻ que nứa cắt mạch máu cổ tay”.
Đến thời gian này thì Bộ Quốc phòng tổ chức lại. Sang năm 1950, ông Phạm Trinh Cán chuyển sang Bộ Tổng tham mưu. Vốn là cử nhân Luật (Đại học Đông Dương) nên ông được điều động vào quân đội, xây dựng luật nhà binh và tổ chức Tòa án binh, chứ không phải người được đào tạo quân đội chính quy.
Sau đó ông được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương. Vì thế vụ này được bàn giao cho Cục trưởng Cục Quân pháp mới là ông Ngô Minh Loan.
- Cụ thể vụ này là: ngoài tội tham ô ra còn bị tội phá hoại đoàn kết nội bộ Đảng trong Cục Quân nhu, trù dập đảng viên tốt. Sau khi bàn giao công việc, anh Bình có hỏi ý kiến tôi: “Nếu tiếp tục điều tra thêm thấy rõ tin đồn là đúng sự thật thì mức độ kết án thế nào?”. Tôi đã nói: “Tùy theo mức điều tra như thế nào. Theo riêng tôi, nặng nhất phải tử hình, dưới nữa phải 15-20 năm tù. Kể cả mức điều tra quan trọng sau lần điều tra báo cáo Trung ương để có chỉ thị. Nếu kết quả cuối cùng của việc điều tra thấy Châu tội nặng cộng với ảnh hưởng công phẫn trong quân đội thì có thể kết án tử hình được”.
Tôi còn nói thêm: “Tới mức ấy không chỉ xin chỉ thị Trung ương mà còn phải xin chỉ thị của Bác”. Việc này phải hết sức thận trọng vì là lần đầu đưa cán bộ cao cấp ra xử, lại là cán bộ hoạt động trước cách mạng.
Hè năm 1950, Tòa án binh tối cao xét xử. Chánh án: Thiếu tướng Chu Văn Tấn – Uỷ viên Chính phủ. Công cáo viên: Thiếu tướng Trần Tử Bình.
- Châu nghe tuyên án không ngờ mình bị tử hình, mặt tái đi, run lên. Đó là tôi (Phạm Trinh Cán) nghe kể lại chứ tôi không dự vì lúc đó đang đi tìm địa điểm khác để tránh hậu quả sau vụ xử Trần Dụ Châu. Nhỡ còn chân tay của Châu có thể tiếp theo sẽ phá hoại cách mạng.
Theo luật, án tử hình được quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Nếu Chủ tịch nước cho ân giảm, không bị đưa ra xử tử thì sẽ đưa về tù chung thân. Khi Tòa án binh tối cao tuyên án, Thiếu tướng Chu Văn Tấn hỏi: “Có xin ân giảm không?” thì Trần Dụ Châu nói: “Có”. Khi đệ đơn xin ân giảm lên Chủ tịch Chính phủ thì Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân giảm. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan
Cụ Phạm Trinh Cán kết luận: Kể việc này để thấy Bác Hồ rất nghiêm với những cán bộ cao cấp không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn thoái hóa, biến chất!”.
Hà Nội, ngày 1-12-2010

ảnh: Cụ Phạm Trinh Cán (1912-2003).



[1]  Bà vừa qua đời ngày 28-11-2010, tại Hà Nội.
[2] Thân phụ TS Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.