Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

NHỚ VỀ MỘT TÌNH BẠN CHÂN THÀNH

Trần Thành Công

Tình bạn, tình đồng chí của những cán bộ cách mạng lão thành thế hệ thứ nhất, thứ hai thật thân tình. Trong đó có quan hệ giữa gia đình tôi với gia đình bác Lý Ban.

Bác Lý Ban tên thật là Bùi Công Quan, sinh năm 1912 tại Long Hòa, Cần Đước, tỉnh Long An. Năm 1927 khi đang học trung học tại Sài Gòn, bác được thầy giáo Phạm Văn Đồng giác ngộ và giới thiệu kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Bác tuyên truyền cách mạng trong học sinh, sinh viên người Việt và người Hoa. Năm 1930, bác được kết nạp Đảng. Cuối 1931, sau hai lần bị thực dân Pháp bắt nhưng không có chứng cứ nên bác bị đưa về quản thúc ở quê nhà. Giữa năm 1932, bác trốn lên Sài Gòn bắt liên lạc với Đảng nhưng không thành. Ở lại rất nguy hiểm, thông qua những người bạn Hoa kiều ở Chợ Lớn, bác xuống một chiếc tầu buôn lánh nạn sang Hồng Kông.


Tại thành phố Sán Đầu, sau khi bắt liên lạc được với tổ chức, bác tham gia hoạt động tại Quảng Đông. Đầu 1934, bác được giới thiệu vào học Trường Đảng tại Khu căn cứ Thụy Kim (tỉnh Giang Tây) với cái tên Lý Ban. Tại đây, bác đã gặp Nguyễn Sơn, một cán bộ cao cấp người Việt. Nguyễn Sơn vốn là bạn học của bác Phạm Văn Đồng tại Quảng Châu từ năm 1926, nay được biết Lý Ban là học trò của thầy Phạm Văn Đồng thì quan hệ của hai người trở nên thân thiết. Nguyễn Sơn đã giới thiệu bác với các thầy từng là giáo viên Trường Quân sự Hoàng Phố, đang là những cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc như: Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Đổng Tất Võ, Diệp Kiếm Anh… Bác Lý Ban được các thầy quan tâm giúp đỡ. Giữa 1934, bác được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Tháng 10 năm 1934, Tưởng Giới Thạch huy động 1 triệu quân tấn công Khu căn cứ Thuỵ Kim. Để bảo toàn lực lượng, Hồng quân Công nông phải tổ chức Vạn lý Trường chinh rút lên Tây Bắc, xây dựng căn cứ. Bác Lý Ban cùng ông Nguyễn Sơn tham gia cuộc hành quân gian khổ này. Rời Thụy Kim được ít ngày, bị ốm nặng bác phải nằm lại dọc đường. Khi khỏi bệnh, mất liên lạc, bác phải đi bộ hàng nghìn cây số, vượt vòng vây kẻ thù, trở về Quảng Đông. Trong năm 1935, bác bám dân, vận động quần chúng khôi phục hệ thống cơ sở cách mạng tại Mai Châu, Triều Châu, Sán Đầu. Đầu năm 1937, cuộc kháng chiến chống Nhật bùng nổ, bác được bầu làm Tỉnh uỷ viên Liên tỉnh uỷ Phúc Kiến - Quảng Đông - Giang Tây. Suốt 8 năm kháng Nhật, bác là một cán bộ lãnh đạo có năng lực được nhân dân Trung Quốc tin yêu. Thời gian này, bác xây dựng gia đình với một người Hoa tên là Ôn Bích Trân. Bà là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1937.

Từ năm 1942, Bác Hồ có thỏa thuận với Bạn xin một số cán bộ người Việt đang hoạt động ở Trung Quốc về nước. Bác Lý Ban và bác Nguyễn Sơn có tên trong danh sách. Đến năm 1946, sau khi cách mạng thành công, bác đưa gia đình trở về và công tác tại cơ quan Trung ương Đảng do đồng chí Trường Chinh phụ trách. Vì đã có những kinh nghiệm hoạt động, bác được giao tổ chức Hoa kiều Vụ và biên soạn tài liệu công tác chính trị trong quân đội, sổ tay chính trị viên v.v… Đến năm 1948, bác được cử làm Cục phó Chính trị cục Quân đội quốc gia (khi đó đồng chí Văn Tiến Dũng là Cục trưởng), đồng thời phụ trách việc liên lạc với Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua hệ thống vô tuyến điện sóng ngắn. Ngày đó trên chiến khu Việt Bắc, anh Lý Tân Hoa (con cả của bác) mới 14-15 tuổi nhưng đã được giao làm liên lạc đưa công văn, thư từ cho bác Trường Chinh, bác Phạm Văn Đồng. Thời gian này cha tôi là Phó bí thư Quân uỷ, Phó tổng Thanh tra quân đội. Vì cha tôi là bạn tù Côn Đảo với bác Phạm Văn Đồng, nên bác Đồng đã giới thiệu bác Lý Ban và bác Nguyễn Sơn kết thân với cha tôi.

Đến tháng 8 năm 1949, Trung ương Đảng giao cho bác Lý làm phái viên cao cấp, vượt vòng vây ra Móng Cái sang Đông Hưng (Quảng Đông), lên Bắc Kinh gặp các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Bác Hồ tận tay giao cho bác lá thư gửi cho vợ chồng đồng chí Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu. Biết chuyến đi sẽ vô cùng gian khổ, bác gửi bác gái và các con nhờ bạn bè chăm sóc. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bác Lý được giao nhiệm vụ phụ trách việc tiếp nhận giúp đỡ của Bạn cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại trên miền Bắc, sau khi tham gia xây dựng ngành Ngân hàng và Hải quan, năm 1959, bác được bổ nhiệm Thứ trưởng, Bí thư Đảng-đoàn Bộ Ngoại thương. Tại Đại hội Đảng lần thứ III, bác được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta bước vào giai đoạn ác liệt thì trong phe xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô và Trung Quốc có những bất đồng dẫn đến mâu thuẫn, ảnh hưởng đến sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Với chủ trương giữ vững đoàn kết với các đảng anh em, tranh thủ một cách hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, bác được giao nhiệm vụ tham gia xây dựng các hiệp định hợp tác kinh tế hàng năm giữa hai nước Việt - Trung. Bác thường xuyên làm việc với Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, Thứ  trưởng Bộ Quốc phòng Trần Sâm để nắm vững nhu cầu của quân đội, cũng như các đồng chí Phạm Hùng, Hoàng Văn Thái để nắm bắt nhu cầu chiến trường miền Nam. Các yêu cầu của quân đội và chiến trường luôn được ưu tiên trong các hiệp định kinh tế Việt - Trung.

Từ những ngày đầu đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, bác đã liên hệ với Bạn cho đặt bộ phận tiếp nhận viện trợ theo đường sắt liên vận quốc tế tại Bằng Tường. Trong suốt thời gian chiến tranh, bộ phận này đã hoàn thành nhiệm vụ. Mặc dù có thời gian Cảng Hải Phòng bị phong tỏa nhưng một khối lượng lớn hàng hoá vẫn được vận chuyển vào Việt Nam, chi viện hiệu quả cho chiến trường.

Mỗi lần Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị dẫn đầu sang đàm phán các hiệp định kinh tế với Bạn, bác luôn có mặt. Mối quan hệ thân tình trong những năm tháng hoạt động ở Trung Quốc của bác có tác dụng trong những lần đàm phán. Tận dụng mối quan hệ này bác cùng tổ chuyên viên đã soạn thảo những văn bản hiệp định, tranh thủ được sự giúp đỡ của Bạn.

Anh em cán bộ ở Sứ quán kể lại nhiều chuyện thú vị trong đàm phán. Với chủ trương tận dụng tối đa sự giúp đỡ của Bạn mà đoàn đàm phán của ta đã xin thêm được nhiều khoản viện trợ, từ hàng chục nghìn chiếc mũ cối, ba-lô đến vài nghìn chiếc xe đạp Vĩnh Cửu, Phượng Hoàng dùng làm xe thồ; thậm chí xin thêm cả số lượng xe ôtô vận tải. Lần đó Bạn đồng ý viện trợ cho 2.000 xe vận tải ba cầu Giải Phóng nhưng ta đề nghị xin thêm số phụ tùng thay thế với lí luận: điều kiện chiến tranh ở Việt Nam rất ác liệt, trên đường vận chuyển xe sẽ bị trúng bom mìn, nếu không có phụ tùng thay thế thì chỉ vứt xó, sử dụng viện trợ không hiệu quả. Phía Bạn đã trả lời: Không thể sản xuất kịp số phụ tùng thay thế cho 2.000 xe. Sau khi bàn bạc, Đại sứ Trần Tử Bình đã thay mặt đoàn đưa ra yêu cầu: “Vậy các đồng chí viện trợ cho chúng tôi thêm 500 đến 1.000 xe nữa, nếu khó khăn thì có thể cấn trừ vào khoản khác. Khi cần chúng tôi có thể lấy phụ tùng của xe chưa sử dụng thay vào xe hỏng hóc”. Bằng quan hệ và cách thuyết phục khéo léo mà đề nghị này được Bạn chấp nhận.

Sau ngày cha tôi mất, bác Lý Ban vẫn duy trì quan hệ thân thiết với các đồng chí Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ, Đặng Tính để tham gia chỉ đạo khảo sát địa hình từ Lạng Sơn vào tận Quảng Bình (sau này tới Đường 559), xây dựng dự án lắp đặt hệ thống ống dẫn, các trạm bơm dã chiến và một tổng kho xăng dầu tại Bằng Tường. Trong chiến tranh, hệ thống cung cấp xăng dầu này đã tiết kiệm được nhiều công sức và xương máu của chiến sĩ, đồng bào, phục vụ các binh đoàn xe tăng, xe cơ giới trong các chiến dịch và góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh.

* * *

Từng làm phu ở vùng đất đỏ miền Đông Nam Bộ, khi gặp bác Lý Ban là dân Nam Bộ gốc, cha tôi thường tâm sự: “Tôi mê cái đất Nam Bộ của anh, đồng ruộng phì nhiêu thẳng cánh cò bay; riêng đồn điền của tôi, rừng cao su kéo dài tít tận chân trời. Còn Bắc Bộ đất chật người đông. Sau này thống nhất, tôi có nguyện vọng về Nam sinh sống”.

Là người lăn lộn đây đó, gặp bác Lý Ban là người từng bôn ba hải ngoại thì cha tôi đem lòng quý trọng. Những năm 1950, khi bác phụ trách tiếp nhận viện trợ của Trung Quốc thì cha tôi phụ trách Trường Lục quân Việt Nam đóng quân ở Trung Quốc. Những năm 1960, hai ông cùng tham gia đoàn đám phán của Chính phủ ta với Bạn. Chính môi trường làm việc càng gắn kết hai người. Để đi đến kí kết chính thức nhiều văn bản hiệp định phải có những cuộc thương lượng, gặp gỡ mang tính chất cá nhân. Bác Lý và cha tôi cùng làm việc đó. Ngoài giờ thương thảo, nhất là những ngày đoàn tạm rút về nước, cha tôi ở lại Bắc Kinh đã tận dụng mối quan hệ “vừa là đồng chí vừa là anh em” cùng quan hệ thân quen để thuyết phục và tranh thủ sự ủng hộ của các đồng chí Trung Quốc. Phải nói bác Lý và cha tôi rất tâm đầu ý hợp, rất tâm đắc khi đưa ra những giải pháp có lợi cho cách mạng Việt Nam.

Sau chiến thắng Biên giới năm 1950, anh Lý Tân Hoa được về Trung Quốc đi học. Đến tuổi nhập ngũ, anh trở thành chiến sĩ Quân giải phóng nhân dân, sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đầu những năm 1960, anh là sinh viên khoa Văn, trường Bắc Đại. Thời kì này, là Bí thư Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tại Trung Quốc, cha tôi đã kí quyết định chuyển Đảng cho anh trở thành đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Đồng thời anh được hưởng chế độ của bộ đội đi học với học bổng ưu đãi. Đây là một ưu ái của cách mạng đối với gia đình bác Lý Ban.

Những ngày ở Bắc Kinh, anh Hoa thường vào Sứ quán thăm cha tôi. Sống xa gia đình, xa Tổ quốc, anh coi cha tôi như bố đẻ của mình. Đến chơi gặp buổi cán bộ, nhân viên Sứ quán lao động trồng cây, tưới hoa là anh xắn quần cùng làm. Anh kể lại cha tôi đã chỉ cho anh cách làm cỏ, bón phân vào từng gốc đào: “Ngày xưa bác đã phải bón phân cho từng gốc cây cao su ở đồn điền Phú Riềng. Việc này tưởng đơn giản nhưng không dễ nếu cháu không làm”. Đến thăm cha tôi, gặp bữa thì ăn cơm cùng. Vừa ăn cha tôi vừa ân cần dặn dò: “Cháu phải cố gắng học tập để sau này về nước phục vụ nhân dân. Đất nước ta sau năm tháng chiến tranh thiếu thốn, khó khăn nhiều lắm. Đừng bao giờ ỷ thế là con em cán bộ cao cấp mà lười biếng… ”. Cha tôi rất quý chị Kim Na, người yêu sau này là vợ anh Hoa. Khi cả hai tốt nghiệp về nước, cha tôi bảo với bác Lý Ban nên cho chị Kim Na về dạy tiếng Nga, tiếng Anh ở Trường đại học Ngoại thương. Trong lá thư viết về cho mẹ tôi có đoạn rất thân tình: “Gửi em tấm ảnh anh và Cu Tám chụp cùng con dâu anh Lý Ban. Cháu Kim Na con một đồng chí Trung ương uỷ viên đã hy sinh. Nó thông minh lắm, biết tiếng Nga, Anh. Chắc hai đứa sẽ đến chào em”.

Thời gian ở Bắc Kinh, anh Hoa còn gặp một số anh em trẻ cùng lứa như Đặng Thái Sung, Võ Văn Biệt, Nguyễn Minh Trực… là con em của bạn chiến đấu được cha tôi rất quan tâm. Được biết anh Đặng Thái Sung là con người bạn tù Côn Đảo. Trong kháng chiến chống Pháp, anh Sung làm liên lạc cho bộ đội Sư đoàn 338, đến năm 1954 được tập kết ra Bắc. Nghe tin, cha tôi đã cử đồng chí bí thư vào tận Sầm Sơn (Thanh Hóa) tìm anh Sung để cho đi học, sau về làm việc ở Thương vụ. Còn anh Võ Văn Biệt là con liệt sĩ Võ Văn Tần, thời gian đó làm giao thông ngoại giao của Sứ quán ta. Cha tôi quý anh Biệt như con, còn anh Biệt gọi cha tôi là “chú”, gọi “thím”  Hưng là “bà già trầu” (vì suốt ngày bỏm bẻm nhai trầu). Anh em trong nhà rất quý mến anh Biệt, anh Sung. Riêng anh Nguyễn Minh Trực, con trai Tướng Nguyễn Chánh (đã mất năm 1957), khi đang học có yêu chị Châu, người Trung Quốc. Ngày đó việc sinh viên Việt Nam yêu và cưới vợ người nước ngoài là điều cấm kị. Vì tình cảm giữa hai gia đình, vì hạnh phúc đôi lứa, cha tôi đã điện về nước xin cho anh Trực được cưới chị Châu. Cha tôi có một tình cảm rộng lớn với con em đồng đội, nhất là bạn chiến đấu đã hy sinh.

Ở Hà Nội, cứ ngày nghỉ, gia đình bác Lý thường qua thăm mẹ tôi và gia đình ở 99 Trần Hưng Đạo. Anh Hoa được tâm sự với cha mẹ tôi mới hay năm 1963 khi dọn nhà về đây, cha tôi cảm thấy sống rất thoải mái và thực sự hài lòng: “Cháu có biết cuộc đời bác có hai niềm hạnh phúc lớn nhất là cùng 5000 công nhân cao su làm nên một “Phú Riềng đỏ” lịch sử và tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội. Ngay tại 101 phố Gambetta[1] - số nhà bên cạnh, trong những ngày tháng Tám năm 1945 lịch sử, bác đã có mặt cùng đồng chí Nguyễn Khang và anh em trong Ủy ban Quân sự cách mạng chớp thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội…”. Đúng là ở những người cộng sản chân chính thì hạnh phúc riêng bao giờ cũng nằm trong cái hạnh phúc chung rộng lớn!

Ngày về nước anh Hoa có mang theo chiếc xe đạp Vĩnh Cửu có khung cao to, chắc chắn. Cứ mỗi lần đến chơi là chúng tôi lại mượn xe, chở nhau chạy vòng quanh sân, hò reo sung sướng. Khi thấy trong phòng khách nhà tôi treo nhiều tranh ảnh nghệ thuật quý, anh Hoa đã phát biểu: Hiếm có gia đình cán bộ nào sống văn hoá như thế!

Cha mẹ tôi cũng như hai bác thuộc lòng tính cách của mỗi đứa con trong hai gia đình. Cha mẹ tôi rất quan tâm đến việc học tập, sinh hoạt của anh Hoa, chị Niệm Vân, anh Tân Việt và Lý Tân Huệ. Đặc biệt em Lý Tân Huệ học cùng Trần Hữu Nghị từ ngày ở Trại nhi đồng miền Bắc, rồi sau này là Trường Nguyễn Văn Trỗi. Ngày Huệ được đi học đại học ở Đức, bác gái đến gặp mẹ tôi tâm sự: “Nhờ chị khuyên bảo cháu hộ tôi khi sang đó thì cố gắng học tập, tránh chơi bời lêu lổng mà bị ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại!”. (Nghĩ lại mà thấy sự ấu trĩ của một thời nhưng câu chuyện đó đã nói lên tình cảm thân thiết giữa hai gia đình).

Sớm ngày mùng 3 Tết năm 1967, cha tôi vội vã ra đi, chẳng kịp trối trăng. Vừa nghe tin, bác Lý Ban cùng các chú các bác Nguyễn Cơ Thạch, Lê Quang Đạo, Trần Duy Hưng, Phạm Kiệt, Xuân Thủy, Nguyễn Văn Lợi cùng cô Hà Giang, bác Trương Thị Mỹ… là những người bạn thân thiết có mặt ngay tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô. Đúng vào dịp nghỉ Tết, hai bên tạm ngừng bắn nên Trung ương quyết định tổ chức tang lễ ngay trong ngày. Bác Lý Ban rất buồn và tiếc rằng đất nước chưa kịp thống nhất để ông bạn người Bắc được sống những ngày cuối đời ở mảnh đất Nam Bộ thân yêu.

Năm 1984, sau khi bác Lý Ban mất, gia đình anh Lý Tân Hoa trở về quê ngoại ở Trung Quốc. Trước khi xa, cả nhà bay ra Hà Nội đến Ba Đình viếng Lăng Bác và chia tay những gia đình thân thiết. Thời bao cấp cả nước khó khăn nhưng mẹ tôi và cả nhà vẫn  làm một bữa phở bò chia tay. Bữa ăn gia đình thanh đạm, không bia rượu nhưng đậm đà tình cảm. Trước khi chia tay, mẹ tôi dặn anh Hoa phải chăm lo sức khỏe cho bác gái và hy vọng quan hệ giữa hai nước sẽ sáng sủa như ngày nào.

Vậy mà đã hơn 20 năm…





[1] Tên cũ của đường Trần Hưng Đạo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.