ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ II[1]
Kháng Chiến
– Kiến Quốc
Trong
một dịp trở ra Hà Nội, chúng tôi được Bùi Việt Sơn (con trai lão đồng chí Bùi
Lâm) tặng một tấm ảnh quý với chú thích phía sau: “Tặng anh tấm ảnh của các cụ
nhà mình gặp lại nhau trong Đại hội II, tại Chiêm Hoá (Tuyên Quang) đầu năm
1951”. Chúng tôi bồi hồi tưởng nhớ tới từng người trong bức ảnh...
Từ
bên trái qua, người mặc áo trắng, đầu đội mũ nồi, đứng đầu là cha chúng tôi –
ông Trần Tử Bình. Trong Đại hội này, ông là đại biểu quân đội. Đứng cạnh ông là
đồng chí Nguyễn Văn Vịnh, quê ở Nam Lợi, huyện Nam Trực, Nam Định. Những năm
kháng chiến chống Pháp, đồng chí từng là Chính uỷ Khu 8. Trong Đại hội, đồng
chí là đại biểu Nam Bộ, sau này là trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng, Chủ
nhiệm Uỷ ban Thống nhất Trung ương.
Người
đứng giữa tay cầm thuốc lá là đồng chí Phan Trọng Tuệ, quê ở Sơn Tây nhưng sinh
năm 1917, tại Viêng Chăn (Lào). Đồng chí vào Đảng năm 1934. Đến năm 1943, khi
là Xứ uỷ viên Bắc Kỳ thì bị bắt và bị đày ra Côn Đảo. Đến tháng 8 năm 1945,
đồng chí được đón về, tham gia lãnh đạo kháng chiến chống Pháp ở miền Tây Nam Bộ.
Đồng chí ra dự Đại hội với tư cách đại biểu
Nam Bộ.
Người
đứng ngoài cùng bên phải khoác áo dạ đen là đồng chí Bùi Lâm, sinh năm 1906 tại
Nam Định, từng là thuỷ thủ tầu viễn dương. Năm 1920, đồng chí gặp Nguyễn Ai
Quốc tại Pháp rồi cùng tham gia xuất bản
tờ báo Le Paria (Người Cùng Khổ). Những năm 1927-1929, đồng chí theo học trường
Đại học Phương Đông (Matxcơva, Liên Xô), sau đó về Việt Nam tham gia Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, gia nhập Đảng. Đồng chí bị thực dân Pháp bắt,
giam cầm ở Sơn La, Côn Đảo. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí đảm nhiệm
Chánh án Toà án quân sự Liên khu 3.
Người
ngồi trước cha chúng tôi là đồng chí Đinh Đức Thiện, sinh năm 1913, quê Nam
Định. Đồng chí gia nhập Đảng năm 1939 và hoạt động ở Vĩnh Yên, Bắc Giang đến
năm 1945. Đã hai lần bị thực dân Pháp bắt. Tháng 8 năm 1945, đồng chí tham gia
lãnh đạo khởi nghĩa ở Vĩnh Yên và năm 1950 thì chuyển vào quân đội làm Cục
trưởng Cục Vận tải (Tổng cục Cung cấp). Tại Đại hội II, đồng chí là đại biểu
quân đội.
Người
ngồi giữa là cụ Nguyễn Lương Bằng, sinh năm 1904 và là đảng viên thời kì dựng
Đảng. Cụ được các đồng chí trong Đảng tin yêu, kính trọng gọi là “Anh Cả”. Ngồi
cạnh cụ là đồng chí Hoàng Tùng, quê ở Hà Nam (đồng hương với cha tôi), đại biểu
các cơ quan Trung ương; sau này làm Tổng biên tập Báo Nhân dân.
Họ
là những bạn tù Sơn La, Côn Đảo, những đồng chí từ những ngày hoạt động bí mật.
Có những người phải chục năm mới gặp lại nhau, tuy tuổi tác chênh lệch nhưng cư
xử rất chân tình.
*
* *
…
Sau ngày hoà bình, từ Việt Bắc trở về Hà Nội, cha chúng tôi vẫn giữ quan hệ
thân thiết với bạn bè thời kì bí mật. Ngoài quan hệ công tác, ông cùng các chú,
các bác có thú vui thể thao dã ngoại - săn chim, săn thú (mà thời đó chưa cấm
săn bắn như bây giờ). Hội săn của các tướng lĩnh được thành lập. Bộ tư lệnh
Công an vũ trang có các chú Phạm Kiệt, Phan Trọng Tuệ; Bộ Quốc phòng có chú
Nguyễn Văn Vịnh, Đinh Đức Thiện, Chu Văn Tấn… Cha tôi có hai khẩu: một nòng và
hai nòng bắn đạn “ca-líp đui”. Ông có hẳn một bộ đóng đạn ria thủ công. Được
tặng mảnh dù rằn ri chiến lợi phẩm ở mặt trận Điện Biên Phủ, cha tôi cho cắt
may thành áo ngụy trang đi săn.
Những
sáng chủ nhật rảnh rỗi, các tướng lĩnh hẹn nhau đi từ sớm. Khi thì về các đầm,
hồ ở mạn Hà Nam, lúc đến vùng rừng núi Tam Điệp Ninh Bình sắn sơn dương, bữa
lại về bắn ngỗng trời bên kia sông thị xã Hưng Yên, hay lên bắn thú ở rừng núi
Thái Nguyên. Bọn trẻ con chúng tôi thì ở nhà chờ “chiến lợi phẩm”. Chiều về,
thấy phụ huynh chân lấm tay bùn nhưng hể hả xách những le le, mòng két, những
ngỗng giời, vịt giời... Tất cả được chia đều cho mọi nhà. Bọn trẻ con hò reo,
giơ cao “chiến lợi phẩm”, mang đi khoe khắp xóm. Chính nhờ quan hệ này mà con
cái thế hệ chúng tôi cũng thân thiết với nhau.
Cha
tôi rất quý bác Cả. Mỗi lần từ Trung Quốc về, ông đều sắp xếp thời gian xuống
thăm bác. Buổi tối, ông lững thững đi bộ từ Trần Hưng Đạo, dọc theo Yết Kiêu
xuống nhà hai bác ở phố Thiền Quang. Cha tôi thường kể cho nghe: “Với cha, bác
Cả là một tấm gương sáng. Bác cũng là bạn tù Hỏa Lò và bị giam tại đây hai lần
- lần đầu vào năm 1931, lần thứ hai kéo dài 10 năm (từ năm 1933 đến 1943) chờ
kết án rồi bị đày đi Sơn La. Tháng 10 năm 1943, bác cùng anh em tù chính trị
vượt ngục Sơn La, trở về với phong trào. Sau đó, bác được bổ sung vào Thường vụ
Trung ương, phụ trách Tài chính. Trong những ngày khó khăn nhất, với trọng
trách của mình bác giữ gìn cẩn thận từng cắc bạc, hạt muối, không hề tư lợi.
Bác được anh em kính trọng. Cương nghị, thẳng thắn, liêm khiết là những đức
tính của bác mà các con phải học tập!... Ngày mẹ các con ốm nặng ở Việt Bắc
phải nhờ có thuốc của bác cho mới khỏi. Đừng bao giờ quên ơn ấy!”.
*
* *
Sau
hơn nửa thế kỷ, sáu đồng chí trong bức ảnh đã đi xa. Nhân dịp Xuân Giáp Thân
sắp đến, xin thắp những nén nhang để tưởng nhớ những đồng chí đã đóng góp sức
lực, trí tuệ và xương máu cho Tổ quốc; đồng thời xin chúc đồng chí Hoàng Tùng
mạnh khỏe, sống lâu!
K.C-K.Q
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.