Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

Bác Trần Văn Giàu, bạn tù Côn Đảo


GẶP GIÁO SƯ TRẦN VĂN GIÀU,

NGƯỜI BẠN TÙ CÔN ĐẢO CỦA CHA TÔI

Kháng Chiến – Kiến Quốc



            Còn vài ngày nữa là tới ngày lễ trọng đại của tháng Tám lịch sử, chúng tôi đến thăm Giáo sư Trần Văn Giàu[1].

           Ông sống gần Trường Đua Phú Thọ. Giáo sư rất vui khi biết có con của bạn tù lại chơi. Ông mời chúng tôi ngồi xuống ghế rồi hỏi: “Các cháu uống gì? Bia nhé!”. Biết ông có thói quen tiếp khách quý bằng bia nên chị giúp việc mang ngay ra lon bia rồi tự tay ông giật nắp, rót ra cốc. Câu chuyện được bắt đầu…

- Năm nay tôi đã 95 tuổi. Tôi sinh năm 1911 cùng tuổi với anh Võ Nguyên Giáp nhưng sinh sau hai chục ngày. Dạo này yếu rồi, đi lại khó khăn và hay quên…

-    Thế bác có nhớ ngày này hơn sáu mươi năm về trước, tháng Tám năm 1945?

-    Nhớ chứ. Sau Hà Nội và Huế thì Sài Gòn - Chợ Lớn giành chính quyền vào ngày 25 tháng 8. Đến ngày 2 tháng 9 khi ngoài Hà Nội tổ chức lễ Tuyên ngôn độc lập thì trong này phải đến cả triệu dân của Sài Gòn, Chợ Lớn và dân Lục tỉnh hồ hởi kéo về tập trung ở quảng trường Nô-rô-đôm, trước Dinh Độc Lập và quảng trường trước tòa nhà Uỷ ban bây giờ. Đây là cuộc mit-tinh lớn chưa từng thấy trong lịch sử. Nhân dân đón chờ tiếp âm của Đài Tiếng nói Việt Nam về bài diễn văn của Hồ Chủ tịch đọc tại Quảng trường Ba Đình.


-    Cháu nghe nói hôm đó có trục trặc nên không tiếp âm được?

-    Đúng là có trục trặc. Nhưng có một người phát biểu thay Cụ Hồ. Sau bài diễn văn, nhân dân vỗ tay như sấm rền hưởng ứng. Sau này nghe lại mới thấy bài phát biểu có nội dung trùng với diễn văn của Cụ Hồ tới chín phần mười. Hầu như không trật.

-    Thật là giỏi! Và người phát biểu là…

Giáo sư cười sảng khoái rồi nói: “Chính là tôi! Điều này tôi đã kể lại cho Báo Sài Gòn Giải phóng”. Câu chuyện của Giáo sư lôi cuốn và làm chúng tôi thêm khâm phục trí nhớ tuyệt vời của ông. “Chúng cháu nghe nói ngay sau đó bác cùng anh em sang Thái Lan xin vũ khí về cho nhân dân Nam Bộ đánh Pháp?”. “Đúng. Vì Thủ tướng Thái Lan lúc bấy giờ là bạn học từ ngày ở bên Pháp nên khi tôi đề nghị là được giúp đỡ ngay. Đó cũng là vận may với một nhà nước còn non trẻ… Năm 1946, chúng tôi đã đưa 2.000 bộ đội được trang bị đầy đủ, biên chế trong bốn chi đội Hải ngoại từ Thái Lan về tham gia kháng chiến… ”.

Rồi câu chuyện được chuyển sang những năm tháng tù đày ở Côn Đảo. Sinh thời cha chúng tôi kể lại: “Thời gian bị cầm tù ở Côn Đảo là thời gian học được nhiều nhất, học cơ bản nhất và học để phục vụ đấu tranh. Trước đó chỉ một vài lần được gặp gỡ nhà cách mạng Tống Văn Trân, rồi được Ngô Gia Tự giác ngộ trong điều kiện hết sức khó khăn nên sự hiểu biết về lý luận cách mạng còn rất yếu và thiếu”. Cha tôi hay nhắc đến cái tên Trần Văn Giàu và coi ông là “người thầy dạy lý luận cách mạng đầu tiên” của mình.

… Năm 1928, Trần Văn Giàu được gia đình cho sang Pháp học sử tại Đại học Toulouse. Tại đây vì hoạt động trong phong trào công nhân nên ông bị trục xuất về nước. Sau đó Xứ uỷ Nam Kỳ đã giới thiệu ông sang Matxcơva học Đại học Phương Đông. Tại đây ông học cùng Trần Đình Long và gặp cả Lê Hồng Phong sau khi tốt nghiệp Trường Không quân đã tới thỉnh giảng.

Khi trở về nước hoạt động, ông bị bắt, bị đưa ra toà và kết án 5 năm tù. Trong 5 năm tù, có một năm ông bị đày ra Côn Đảo. Khi đó ở Côn Đảo đã có ba banh giam tù chính trị, tù thường phạm. Mỗi banh có hai dãy nhà, mỗi dãy có tám khám (mỗikhám có hai phòng) giam 40 tù nhân; nhưng thực tế chúng nhốt trên 100 tù. Tù chính trị không chỉ là đảng viên Cộng sản mà còn có cả đảng viên Quốc dân Đảng, trong số đó lại bị phân ra: tù chính trị khổ sai (tù phải lao công) và tù chính trị (tù không phải lao công). Theo phán quyết của tòa, ông là tù chính trị và bị giam vào Banh I. Tại đây ông đã gặp các tù chính trị khổ sai: Tôn Đức Thắng, Trần Tử Bình, Hà Huy Giáp, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh, Trần Xuân Độ v.v… còn các ông Phạm Văn Đồng, Bùi Công Trừng bị giam ở Banh II.

Ở Côn Đảo, anh em tù chính trị Cộng sản có mở các lớp học tập lí luận cách mạng, chuẩn bị cho những ngày trở về đất liền tiếp tục hoạt động. Biết Trần Văn Giàu từng học tại Đại học Phương Đông nên tổ chức đã phân công ông dạy Chủ nghĩa Marx, Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử…  Theo luật của chính phủ bảo hộ thì  “tù chính trị không phải lao động khổ sai” nên ông có thời gian chuẩn bị bài vở.

Còn anh em tù khổ sai thì phải xuống biển lấy san hô lên nung vôi, hay lên núi lấy củi về đốt, lấy đá về xây dựng… Nói chung công việc rất nặng nhọc. Ai chống đối là bị đánh dã man. Tuy vậy khi biết có tổ chức lớp học, anh em rất hăng hái. Những ngày mưa to gió lớn, những ngày không phải đi làm khổ sai là những ngày lên lớp.

Theo lịch giảng dạy, anh em ở các khám lẳng lặng máy nhau đến lớp. Lớp học tổ chức ngay trong phòng của một khám. Học viên ngồi bệt xuống sàn nhà. Thầy giáo thì lấy nền xi-măng làm bảng đen, lấy gạch làm phấn. (Riêng chuyện kiếm phấn  viết bảng cũng là chuyện thú vị, anh em cứ moi dần cho hết lớp vữa trên tường để lộ viên gạch ra rồi cậy từng mẩu gạch cất đi, dùng dần). Khi thầy giáo giảng thì học viên chăm chú nghe và cố gắng nhập tâm. Sau đó mỗi lần đi rừng hay xuống biển lại tranh thủ trao đổi, truy bài nên kiến thức không bị mai một. Có những khái niệm khó hiểu, nhất là bài học về Duy vật biện chứng, học viên thắc mắc và được thầy giải đáp đến nơi đến chốn. Thậm chí anh em có thể kiếm được cả giấy, bút để viết lách nhờ đút lót để lính coi ngục mua hộ.

Những lúc bọn giám ngục o ép, việc học tập phải rút vào bí mật. Trong số anh em đã qua trường lớp hoặc từng sinh hoạt trong tổ chức Hướng đạo đều có kiến thức về tín hiệu moóc-xơ[2]. Vậy là người biết dạy người chưa biết và một thời gian sau, hầu hết anh em tù chính trị đều  sử dụng thành thạo kỹ thuật này. Từ phòng giam, thầy giáo có thể dùng tín hiệu “tạch - tạch - tè” để giảng bài cho học viên ở các phòng bên. Thầy giáo thì cầm bù-loong đập khẽ xuống sàn, còn học viên ở phòng bên cạnh thì ghé sát tai xuống sàn, nhận tín hiệu rồi dịch ra thành bài giảng. Cứ như vậy kiến thức được chuyển từ phòng này sang phòng khác và bài giảng vẫn được tiến hành đúng lịch.

Không chỉ được giảng dạy lý luận mà anh em tù chính trị còn được học cả lịch sử, văn học, nghệ thuật, học cả tiếng Pháp. Các thầy Bùi Công Trừng, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng… dạy cho anh em lịch sử nước Pháp, nước Tàu. Truyện Thuỷ Hử, Truyện Kiều, Trinh Phụ Ngâm… cũng được truyền miệng, đọc cho nhau trước khi đi ngủ. Chưa kể anh em còn dựng các vở kịch, vở tuồng biểu diễn trong mỗi dịp lễ tết. Bọn giám ngục cùng gia đình tới xem và tỏ ý khâm phục tù chính trị Cộng sản.

Hết chuyện này sang chuyện khác. Ngồi chơi đã lâu sợ Giáo sư mệt, chúng tôi xin phép ra về. Vậy mà ông vẫn  như muốn níu kéo khách ở lại: “Lần sau lại đến chơi, nói chuyện với bác!... Cha cháu và bác chỉ sống với nhau hơn một năm ở Banh I, đến năm 1936 do phong trào Bình Dân ở Pháp mà cha cháu được thả về, còn bác thì đã mãn hạn tù. Chỉ một năm nhưng bác thấy cha cháu là con người nghĩa khí, chịu khó học tập. Côn Đảo thực sự là một trường đại học lớn cho các nhà hoạt động cách mạng của nước ta”.

Bắt tay ông hồi lâu. Nghe chúng tôi chúc ông mạnh khỏe thì Giáo sư móm mém cười và nói: “Có chuyện vui thế này, hai ông già 95 - Trần Văn Giàu và Võ Nguyên Giáp - đã kí giao kèo với nhau, thi đua xem ai khỏe hơn…”.

Tp. Hồ Chí Minh, 17-8-2006







[1] Nguyên Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ 4-1945, nguyên Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ 9-1945.
[2] Morse - mã moóc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.