HẠNH TÍCH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO KÍNH TRONG THÁNG 4
Thánh Phê-rô Hiếu chịu hành hình nhưng kiên quyết bảo vệ Chúa. |
Ngày 28 tháng 4:
Thánh Phêrô Nguyễn Văn Hiếu,
Thầy Giảng
(1783-1840)
Thánh Phêrô Nguyễn Văn Hiếu sinh năm 1783 tại làng Đồng
Chuối, huyện Bình Lục, tỉnh Ninh Bình. Ngài vào tu trong Nhà Đức Chúa Trời ngay
lúc còn nhỏ tuổi. Tính tình vui vẻ, nhanh nhẹn, luôn tỏ ra ngoan ngoãn, vâng lời
và chăm chỉ chu toàn công việc trong nhà Chúa. Khi làm Thầy Giảng thầy đã giúp
nhiều linh mục Thừa Sai và sau thì về giúp cha Phạm Khắc Khoan ở Phúc Nhạc, thầy
thường theo cha Khoan đi làm việc tông đồ mà không sợ bắt bớ. Khi ở nhà, thầy
giữ luật rất nghiêm túc, sốt sắng đọc kinh lần hạt Mân Côi dâng kính Đức Mẹ..
Giáo dân rất quí mến và cảm phục về lòng đạo đức thánh thiện của thầy.
Thầy bị bắt lúc 50 tuổi và đang giúp xứ cha Khoan ở
Phúc Nhạc. Trong những ngày bị bắt và tù ngục, lúc đầu được giam cùng cha Khoan
nhưng sau thì quan lại cho lệnh giam thầy Phêrô Hiếu một nơi riêng, không cho
tiếp túc với cha Khoan nữa. Thầy bị tra tấn nhiều lần rất tàn ác, bị đòn vọt rất
dã man, bị đeo gông cùm, xiềng xích nặng nề, chịu đói khát. Nhưng thầy vẫn một
lòng kiên trì, không chịu bước qua Thập Giá. Thầy cương quyết và sẵn lòng chịu
mọi khổ cực một cách can đảm và vui vẻ vì đạo Chúa, không một lời ca thán hay
trách móc những kẻ đánh đập hành hạ mình. Có lần quan cho gọi Thầy ra trình diện
và khuyên Thầy bước lên Thập Giá với những lời lẽ ngọt ngào, quan nói:
- Tôi rất thương anh nên muốn tha cho anh về với gia
dình, làm ăn. Nếu nghe theo tôi, tôi sẽ giúp đỡ để anh có thể lập nghiệp dễ
dàng.
Thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu khiêm tốn đáp lại:
- Tôi hết lòng cám ơn quan lớn về những lời khuyên dụ
và hứa hẹn giúp đỡ tôi. Nhưng tôi không thể bỏ Chúa tôi, là Đấng đã tạo dựng
nên trời đất cùng mọi loài thụ tạo trên trần gian này. Ngài là Chúa Trời đất,
tôi phải tôn thờ Ngài.
- Anh nói Chúa Trời đất à? Đạo này là do mấy người
“tây dương” tới đây tuyên truyền nhảm nhí chứ không phải như vậy đâu. Anh phải
vâng lệnh đức vua. Anh đã biêt là đức vua đã nghiêm cấm thứ đạo này không?
- Bẩm quan lớn tôi biết đức vua cấm. Nhưng tôi phải
vâng lời Thiên Chúa là Đấng tôi tôn thờ hơn là vâng lời đức vua.
Để lung lạc thầy, quan cho biệt giam hai Thầy trong một
phòng riêng, không cho tiếp xúc với cha Khoan vì sợ cha Khoan sẽ khuyến khích
và. khuyên bảo nên hai Thầy sẽ theo cha mà không chịu bước lên Thánh Giá. Dẫu
thế, dù xa cha, hai thầy vẫn khuyên bảo nhau vững lòng theo Chúa và cam chịu mọi
đòn vọt, đánh đập tàn ác. Có lần lính lôi
thầy Hiếu qua ảnh tượng Chúa, Thầy co chân lại nói lớn:
- Các anh kéo tôi đi chứ tôi không chịu. Tôi không dám
xúc phạm đến Chúa tôi thờ. Tôi không dám
xúc phạm đến Chúa Trời Đất là Chúa của tôi.
Sau đó thầy ăn chay các ngày thứ Sáu để đền tội xin ơn
can đảm chịu mọi sự xỉ nhục đau đớn.
Quan khuyên dụ nhiều lần, nhiều cách mà Thầy vẫn cương
quyết không bỏ đạo nên quan lập cách ép buộc hai Thầy bỏ đạo. Mặc dầu không còn
được giam chung với cha Khoan nữa, không còn được sự khuyến khích thiêng liêng
của cha Khoan, nhưng các Thầy lại khuyến khích nâng đỡ nhau chịu đòn vọt cho đến
chết vì đạo Chúa, vì yêu mến Chúa. Giam cầm mãi, đến đầu mùa thu năm 1939 quan
lại gọi thầy Hiếu ra dụ dỗ một lần nữa bước qua Thập Giá, và bỏ đạo. Thầy vẫn
cương quyết dù có phải chết thì cũng luôn sẵn sàng đón nhận chứ không bao giờ bỏ
Chúa, bỏ đạo.
Lần cuối cùng trước khi quyết định kết án hai thầy,
quan cho gọi thầy Phêrô Hiếu tới để khuyến dụ. Quan án nghĩ rằng thế nào cũng sẽ
thuyết phục được thầy nên quan xử đối với thầy rất nhã nhặn và hiền hoà. Quan
án hỏi thăm sức khỏe của thầy, hỏi thấy
có cần gì không. Thầy trả lời xin cám ơn quan thầy không cần chi, thầy
chỉ mong được chết cho Chúa. Sau đó quan án hỏi lại:
- Đây là lần cuối cùng, tôi muốn khuyên thầy suy nghĩ
lại mà bước qua Thập Giá để được tha. Thực tình tôi muốn tha cho thầy nhưng đây
là lệnh của đức vua , nếu thầy không vâng lệnh đức vua thì bắt buộc tôi phải
thi hành án lệnh. Giờ đây tôi mong thầy nghĩ lại và làm theo lệnh đức vua.
Thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu khiêm tốn trả lời:
- Tôi xin hết lòng cám ơn thiện ý của quan lớn. Nhưng
việc bước qua Thập Gía thì nhất định không bao giờ tôi làm. Tôi rất vui lòng và
sẵn sàng đón nhận cái chết vì Chúa chứ không bao giờ tôi bỏ Chúa là Đấng tôi
tôn thờ.
Thấy sự cương quyết và ý chí sắt đá của thầy, các quan
biết không còn cách nào có thể thuyết phục được thầy nên các quan quyết định phải
kết án trảm quyết. Án được vua châu phê và ngày thi hành án được ấn định là
ngày 28 tháng 4 năm 1840 cùng với cha Khoan và thầy Thành.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong Chân Phước cho
Ngài ngày 27 tháng 5 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đâ nâng Ngài
lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Năm 1839 chứ bác ơi!
Trả lờiXóa