Hà Nam một địa
danh Lịch sử - văn hóa. Mảnh đất giàu truyền thống văn hiến đã sinh ra nuôi dưỡng
nhiều võ tướng, danh nhân trong thiên lịch sử dựng và
giữ nước của dân tộc: Trần Bình Trọng, Đinh Công Tráng, Đề Yêm, Nguyễn Khuyến… Truyền thống ấy lại được tiếp tục cổ vũ, phát
huy mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, thực dân phong kiến giành độc lập,
tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân tộc khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Cũng qua cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao
nhiêu người con ưu tú của nhân dân Hà Nam đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho lý
tưởng Cách mạng, tiêu biểu là các đồng chí: Lương Khánh Thiện, Nguyễn Hữu Tiến,
Lê Hồ, Trần Tử Bình… và các anh hùng liệt sĩ trong các cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Có nhiều địa danh, phong trào cách mạng đi vào lịch sử của tỉnh
nhà và lịch sử cách mạng của dân tộc như
Khởi nghĩa Bồ Đề… Đó cũng là niềm tự hào vô cùng lớn lao của Đảng bộ,
nhân dân Hà Nam.
ẢNH TƯ LIỆU
CHỤP HIỆN VẬT VIỆN BẢO TÀNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
(Số 5 – Tôn Đản – Hà Nội)
Quả cân chiến sĩ Cách
mạng dùng buộc vào cờ ném lên ngọn cây để cổ động quần chúng đấu tranh phối hợp với phong trào Xô viết Nghệ tĩnh tại chợ Bồ Đề, Dốc La, chợ Chủ, xã Ngọc lũ huyện
Bình Lục – Hà Nam.
Trên mảnh đất này,
có một địa danh lịch sử, cái nôi cách mạng của tỉnh và của khu vực Bắc kỳ: Thôn
Cổ Viễn, xã Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam ngày nay.
Tôi được sinh ra,
lớn lên nơi đây. Tuổi ấu thơ đầy kỷ niệm với bãi mía, ruộng ngô và con sông
Châu Giang hiền hòa, chiều về xao động bởi lũ trẻ thơ khỏa nước tắm mát cùng
đàn trâu. Dòng sông quê luôn ôm ấp ngôi làng bé nhỏ với tuổi thơ tôi, bạn bè
tôi cũng như những người nông dân thật thà, chất phác bao đời “Bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời” nhưng giàu lòng yêu quê hương đất nước.
Làng Quắn (thôn Cổ
Viễn ngày nay) cái tên làng được gán cho bởi sự nghèo túng bần hàn trong thời kỳ
thống trị của thực dân phong kiến. “Nghèo quắn đít” chúng tôi thường được nghe
các cụ nói thế và tên làng Quắn ra đời từ đó. Những kỷ niệm ấy song hành cùng kỷ
niệm bạn bè thay nhau ngày hai buổi đến trường. Trên tay là những trang sách mỏng,
đầu đội mũ rơm rộng vành tránh bom đạn Mỹ, ngày đêm máy bay địch rú rít trên bầu
trời đan dày lửa đạn phòng không sáng lóe một vùng.
Tháng ngày này quê
tôi, cũng như bao vùng quê khác, vắng bóng đàn ông. Họ ra trận tuyến diệt thù,
chỉ còn lại phụ nữ tay cầy, tay súng, đảm việc nhà, giỏi việc nước và bầy trẻ
thơ chúng tôi cưỡi lưng trâu “phi nước đại” sau một ngày làm đồng vất vả. Vui
làm sao bao buổi chiều tà hoặc giữa đêm khuya hàng đoàn xe đặc chủng chở tên lửa,
kéo pháo, trên xe là màu áo xanh thân thương của các chú bộ đội xen lẫn mầu
xanh lá ngụy trang rầm rập qua làng. “Đất lành chim đậu”, các chú về tá túc một
đêm để hôm sau lại hành quân ra trận, được người dân làng tôi đón tiếp nồng nhiệt
như người thân lâu ngày trở lại. Nhà nhà, người người nhường những chiếc giường
gỗ xoan mộc mạc dát bằng tre, chiếu rách lót rơm chống rét ngày đông. Các cô,
các chị mời các chú, các anh bát nước chè xanh ấm tình quân dân cùng củ khoai,
tấm mía. Rồi nữa, cơ quan nhà nước, trường học sơ tán thời kỳ giặc Mỹ leo thang
phá hoại miền bắc về mảnh đất nghèo vật chất, giàu tinh thần ấy luôn được chờ
đón chở che chu đáo. Vâng, nếu như không nhắc nhở là một thiếu sót lớn với quê
hương, còn đó kỷ niệm cho tới bây giờ trong tôi vẫn thấy xốn xang. Hình ảnh dân
làng tôi mấy lần vui mừng, hồ hởi được đón các cán bộ lãnh đạo Trung ương:
Hoàng Quốc Việt, Phan Trọng Tuệ, Trần Tử Bình… về thăm nơi nuôi chứa, che chở,
bảo vệ trong giai đoạn dài các ông hoạt động bí mật trước cách mạng Tháng Tám,
mặc dù việc nước bộn bề. Tình nghĩa luôn tràn đầy.
Thế đấy, tuổi ấu thơ
còn biết bao nhiêu kỷ niệm chất chứa trong tim tôi, bạn bè tôi và người dân quê
tôi. Năm tháng trôi, chúng tôi lớn lên
trong thời bao cấp, thời mà người nông dân chân lấm tay bùn lót dạ ngày hai bữa
không đủ no bởi những hạt gạo thưa thớt mang vị mặn của mồ hôi độn giữa sắn,
khoai, đao… Thậm chí lá khoai lang ăn trừ bữa của nhiều gia đình trong tháng giáp
hạt ở cái làng nghèo tên Quắn ấy. Hạt gạo làng tôi được góp nhặt, có mặt nơi tiền
tuyến để nuôi quân ăn no, đánh thắng và làm nghĩa vụ quốc tế. Cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc rồi cũng kết thúc. Làng tôi những người ra đi
chiến đấu, có người mãi mãi nằm lại nơi sa trường. Người khập khiễng trở về
trên mình mang đầy thương tật. Người may mắn hơn sau bao năm chinh chiến khi về
da sạm vì sốt rét, tóc ngả mầu thời gian, chân dép lốp cau su mòn đế, vai nhẹ
ba lô gió thổi. Khó khăn gian khổ lại đeo đẳng cuộc sống thêng
ngày nhưng tình làng nghĩa xóm vẫn gắn kết như vốn có, êm đềm như dòng Châu
Giang muôn thửa. Dân làng tôi hòa chung
niềm vui cùng với người dân đất Việt khi đất nước thanh bình và từng ngày nỗ lực
bên nhau xây dựng quê hương. Thế rồi, chẳng bao lâu biên giới phía nam, phía bắc
gầm vang tiếng súng khi kẻ thù gây hấn. Tổ quốc gọi, lớp thanh niên trai tráng
trong làng chúng tôi lại khoác lên mình màu xanh áo lính, tiếp bước cha anh chắc
tay súng bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Con tim, khối óc đầy kỷ
niệm tuổi thơ phôi thai từ ngôi làng nghèo nhưng rất đỗi thân thương ra trận.
Trận chiến ấy, cũng có người nằm xuống nơi biên cương Tổ quốc, đất bạn
Campuchia, để lại những vành khăn tang và nỗi tiếc thương vô hạn nơi quê nhà.
Còn tôi, mang trên mình sắc phục nhà binh sau hơn ba mươi năm trở lại.
N¨m 1962, đång chÝ
TrÇn Tö B×nh vµ vî NguyÔn ThÞ Hng (tøc T©n) vÒ th¨m l¹i gia ®×nh cô NguyÔn H÷u
QuyÒn th«n Cæ ViÔn, x· Hng C«ng c¬ së nu«i dìng, b¶o vÖ trong thêi kú ho¹t
®éng bÝ mËt n¨m 1936 - 1943. Trong ¶nh: ¤ng TrÇn Tö B×nh vµ vî cïng Cô
NguyÔn ThÞ Nho (vî Cô NguyÔn H÷u QuyÒn) ngåi trªn chiÕc ph¶n.
(Con tiep)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.