Từ trái: Các cụ Lê Thiết Hùng, Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Bằng Giang - đại biểu QĐ tại Đại hội 3 (1960) | . |
Trước đó, từ cuối mùa đông
năm 1939, đầu năm 1940, Lê Quảng Ba và Trần Sơn Hùng (tức Thiếu tướng Hoàng
Sâm) được giao nhiệm vụ bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Những câu chuyện này và
nhiều “huyền thoại” khác về họ vẫn được kể bên bếp lửa đỏ của người Tày, người
Nùng, người Dao ở Việt Bắc…
Chuyện bảo vệ lãnh tụ tại Cao
Bằng, nhà văn Đỗ Quang Tiến đã xây dựng trong truyện “Vòm trời biên giới” (Tuổi trẻ
Lê Quảng Ba), nhà xuất bản Việt Bắc 1972. Năm 1987, Thiếu tướng Lê Quảng Ba
kể lại cho Đại tá nhà báo Hoàng Thế Dũng câu chuyện những ngày bảo vệ Bác Hồ
tại Pác Bó dưới dạng hồi kí, và 100 ngày trước khi ông ra đi vĩnh viễn, cuốn
sách đã được hoàn thành. Tháng 12-1994, kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam cuốn sách “Bác Hồ với đội du kích Pác Bó” đã được
chào đời bởi bà đỡ mát tay là nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.
Năm ấy, ở Hà Quảng, Cao Bằng cũng như nhiều năm trước, có
không ít bọn phỉ cướp phá. Châu uỷ Đảng Cộng sản đã lập được đội du kích và phát động phong trào phòng, chống phỉ
để canh giữ thôn, bản và dự kiến nhiều phương án đối phó nếu phải chạm trán với
chúng. Một yêu cầu đề ra cho đội du kích là: vạn bất đắc dĩ mới đối đầu với
chúng. Kể ra, Đội Du kích Pắc Bó này cũng không phải là vô sản. Họ có hai khẩu súng ngắn pặc-khoọc, một
số lựu đạn Italia và lựu đạn chày mua của Quốc dân đảng.
Bọn phỉ cũng biết đội du kích
và cả 2 cán bộ lãnh đạo: ông Lê (tức Lê Quảng Ba) và ông Trần (tức Hoàng Sâm).
Nhằm thị uy, trấn áp, thăm dò lực lượng xem cái gan hai ông này thế nào, để đối
phó, làm ăn, nên chúng bày mẹo mời thi uống rượu, thi bắn súng.
Một hôm, trời quang, mát mẻ,
chúng kéo quân về Pác Bó, đặt 1 khẩu trung liên trên đồi, chiếm điểm cao, 2
khẩu còn lại, 1 đặt trước, một đặt phía sau Pác Bó, sẵn sàng nhả đạn.
Vào nhà một quần chúng cách
mạng, tên trùm phỉ Lỷ Síu bảo:
- Tao biết ông Trần, ông Lê Cộng sản ở gần đây. Mày báo cho hai vị là Lỷ Síu, muốn mời hai vị đến uống rượu chơi!
Tin về Đội Du kích Pác Bó. Cán bộ Lê và Trần thảo luận:
- Nó muốn nắn gân mình đây!
Không đến, nó cho là hèn, có thể còn cướp cả bản. Nó mà cướp được bản thì đoàn
thể mất uy tín, bọn phỉ khác lại tung hoành. Mà đến có khi phải đấu súng.
Cuối cùng, hai người thống
nhất là phải đi, nhưng khéo léo, dùng mưu đánh cho trùm phỉ một đòn.
Cùng với việc lệnh báo cho cơ
sở tăng cường canh gác, tập trung trung đội, vận động nhân dân “bao vây” Pác
Bó. Một mình, một súng pặc-khoọc, cán bộ Trần Sơn Hùng, có nghĩa là “con gấu núi” họ Trần, đàng hoàng bước
vào ổ phỉ.
Lỷ Síu ra đón ngay:
- Ông Lê có nhà mà không đến uống rượu với Síu này à?
Cán bộ Trần đáp lời:
- Ông Lê đang huấn luyện cho một đội quân, nếu cần, ông ấy sẽ đến. Có gì, ta sẽ
mời ông ấy đến sau.
Thức ăn là những tảng thịt
lợn, gà luộc chấm muối, rượu từ trong vò rót ra bát, tràn đầy mới dừng tay.
- Rượu ngon, xin mời ông
Trần.
Ông Trần chưa bưng bát rượu lên mà thong thả bảo:
- Tôi có lời trước với ông
là, ông nên ra lệnh cho quân ông đừng sơ sểnh mà cướp cò súng... Nếu có tiếng
nổ, quân tôi tưởng là tôi ra lệnh, họ sẽ rót đạn vào đây. Bữa tiệc của ta mất
vui. Ông thấy thế nào?
Bán tín, bán nghi, nhưng cũng
e sợ, Lỷ Síu cho lệnh tháo đạn.
Ăn không bao nhiêu, nhưng
rượu ông Trần uống thì hết bát này, cạn bát khác...
Lỷ Síu khen:
- Tửu lượng của ông quả là
cao. Vui thế này ta nên mời ông Lê đến...
Cán bộ Lê tới, cùng uống
rượu, bên hông vẫn kè kè khẩu pặc-khoọc (khẩu thứ hai của đội).
Xong tiệc, trùm phỉ mời 2 vị
xuống núi dạo chơi.
Đến một cây si to, Lỷ Síu dừng lại:
- Tài bắn súng của ông Lê đã
lừng danh thiên hạ, bách phát bách trúng, tôi vốn có lòng hâm mộ. Hôm nay được
hội ngộ, xin được ông chỉ giáo cho.
Ông Lê khiêm tốn:
- Họ nói thế thôi chứ, ông
Trần đây mới đáng là đàn anh của chúng tôi. Nhưng nếu ông đã có lời, tôi không
dám chối từ. Xin mời ông...
Lỷ Síu chỉ vào một vạch tròn trên cây si bảo, “hồng tâm ở cây si”, rồi giơ
súng, bóp cò. Viên đạn chạm vào cách điểm tâm vài phân. Cán bộ Lê rút súng bắn
ngay. Tên trùm phỉ hoảng vía:
- Ôi! Đúng hồng tâm rồi!...
Họ rủ nhau đi tiếp. Gặp một
bụi nứa nhỏ, Lỷ Síu lại thách:
- Tôi với ông Lê bắn cây hóp
to nhất nhé!
Tuy là một tay bắn cừ, hai
tay như nhau, thường ngày, tên phỉ này ít bắn sai, nhưng hôm nay bị “ma ám” nên
nó bắn không được. Viên đạn của nó chỉ chạm vào cạnh cây hóp, để lại một vết
xước nhỏ.
Đến lượt ông Lê, khẩu súng
chĩa nhanh về phía bụi cây, xen vào tiếng đạn nổ là tiếng “đốp”, một dóng cây
hóp nứt toạc ra.
Lỷ Síu mặt tái lại:
- Quả là danh bất hư truyền.
Chừng vẫn chưa chịu, trùm phỉ
lại chỉ một cây đu đủ trước mặt, cách xa chừng năm, sáuchục mét, nói lạc giọng:
- Ta bắn quả chín lồi ra...
Cán bộ Lê lại “mời ông bắn
trước”.
Lần này, Lỷ Síu cẩn thận hơn, từ từ nâng súng lên, nheo mắt, bóp cò. Viên đạn xuyên
qua quả đu đủ, hạt đen rơi vãi xuống...
Cán bộ Lê khen:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm!... Tôi
xin phép lấy nó xuống. Chín rồi mà....
Tỳ súng lên khuỷu tay trái,
ông Lê nhằm cuống quả đu đủ. Đạn nổ, quả đu đủ bị đạn trúng cuống, rơi bịch
xuống đất.
Bấy giờ, tên trùm phỉ vã mồ
hôi trán. Nó ấp úng:
- Tôi thật là... Đứng trước Thái Sơn mà không biết. Xin bái phục, bái phục!
Là một tay ném lựu đạn trăm
lần không sai lần nào, trùm phỉ lại gạ ném thi lựu đạn. Cách chỗ họ đứng khoảng
50m, Lỷ Síu cho xếp đá thành một vòng
tròn đường kính khoảng 2m. Nó lịch sự nói:
- Xin mời ông Trần...
Trần Sơn Hùng rút ngay 4 quả lựu đạn Italia bên hông, hào phóng
vung tay, đất đá cuội trong vòng tròn tung lên. Còn Lỷ Síu ném một quả chệch vòng tròn, lại không nổ.
Lỷ Síu nói:
- Tôi ném lựu đạn chày quen
tay...
Cán bộ Lê cười vui vẻ, ra
lệnh cho đồng chí du kích đi theo:
- Đồng chí về báo cáo thủ
kho, khiêng ra đây một thùng lựu đạn chày.
Thực ra ta chỉ có 18 quả, để
trong 2 thùng, một thùng 8 quả, một thùng 10 quả!
Cuộc thi ném lựu đạn bắt đầu.
Ông Trần ném 4 quả 4 lần trúng đích, Lỷ Síu ném 4 quả, 4 lần ra ngoài.
Như con thú say máu, Lỷ Síu lại thách ông Lê:
- Tôi với ông thi bắn súng
trường chứ?
Ông Lê ra lệnh:
- Về kho, chọn một khẩu súng
trường Bỉ ra đây.
(Như trên đã biết: gia tài
của ông Lê chỉ có độc một khẩu Bỉ mà thôi!).
3 lần Lỷ Síu bắn đều trượt, còn 3 phát đạn của ông Lê đều trúng hồng tâm.
Cay cú, trùm phỉ đánh con bạc
cuối cùng:
- Ta thi bắn trung liên.
Cán bộ Lê, thấy cần phải hạ
nhiệt.
- Rất tiếc, chúng tôi không
có trung liên.
Lỷ Síu hằn học:
- Chúng tôi biết các ông mới
bắn thử trung liên mà.
(Thật ra, cán bộ Lê đã tập
trung mấy khẩu súng trường, bắn từng loạt 3 phát một “giả” trung liên rồi cho
người phao tin “du kích có súng liên thanh”).
- Nhưng thôi. Tôi biết các
ông có đoàn thể nhiều súng, nhiều đạn (!). Còn chúng tôi bắn một viên, ném một
quả lựu đạn cũng phải móc ở hầu bao ra. Xin chịu thua các ông.
Thì ra, lúc ném lựu đạn, Lỷ Síu không rút chốt an toàn... để tiết kiệm!
Chắp tay vái chào “kính lễ”
xin có dịp tái ngộ, trùm phỉ ra lệnh rút quân.
Cán bộ Lê và Trần cùng mấy
anh em đi tắt đường chặn trước đường rút của bọn phỉ. Cho nạp thuốc nhồi mảnh
gang vào nòng một loại súng kíp to, cán bộ Lê “khai hoả”. Khẩu súng gầm lên,
bụi cây bị cắt xén, cành lá bay tứ tung. Bọn phỉ còn cách xa, nhưng nghe tiếng
nổ, sợ mất vía, chạy tán loạn.
Ông Lê và Trần đến gặp Lỷ Síu. Mặt tên trùm phỉ cắt không
còn hạt máu, lắp bắp:
- Súng gì mà to thế các ông?
- À, súng mới nhận ở nước
ngoài về. Quân chúng tôi đang tập trận, nên tôi phải đi trước về báo, kẻo lại
bắn nhầm vào quân của ông.
Lỷ Síu trầm trồ:
- Các ông đi cách gì mà nhanh
thế? Cũng may mà các ông về sớm. Xin đa tạ.
Nó chắp hai tay lại, cúi đầu
mấy lần:
- Xin đa tạ, đa tạ. Hẹn tái
kiến, tái kiến...
Thế là rừng Pác Bó từ đó
không thấy trùm phỉ Lỷ Síu xuất hiện. Và chuyện “đấu
rượu, đấu súng” đã làm cho tất cả bọn phỉ biên giới “cạch mặt” hai ông “tướng Việt Minh” và đội du kích của đoàn thể Việt Minh được lan truyền khắp nơi. Sợ uy Việt Minh, một số nhóm phỉ khác trong vùng cũng phải dạt đi nơi khác.
**
*
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thiếu tướng Lê Quảng Ba
được tín nhiệm cử giữ nhiều nhiệm vụ trọng yếu: Khu trưởng Khu Hà Nội (nay là Tư lệnh Quân khu Thủ đô), Chỉ huy trưởng Mặt trận
Duyên hải Đông Bắc và vượt Thập Vạn Đại Sơn giúp Hồng quân
Trung Quốc tiêu diệt quân Quốc Dân đảng giải phóng đất nước và thành lập nước
CHND Trung Hoa, Tư lệnh Liên khu Việt Bắc, Đại đoàn trưởng đầu tiên Đại đoàn 316, Tư
lệnh Quân khu Việt Bắc… Năm 1960, ông chuyển
ngành, làm Trưởng ban Ban Dân tộc Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của
Chính phủ, rồi Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa III (1960), đại biểu Quốc hội từ khóa II (1960) đến khóa VI (1976), Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến thắng hạng nhất và nhiều huân, huy
chương cao quí khác./.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.