Gia đình năm 1960 ở Hà Nội

Gia đình năm 1960 ở Hà Nội
Gia đình chụp kỉ niệm ở Hiệu ảnh Quốc tế Bờ Hồ, Hà Nội, năm 1960. (Từ trái qua, hàng trước: Hữu Nghị, Thành Công, Kiến Quốc, Hạnh Phúc. Hàng sau: Kháng Chiến, Cha, Thắng Lợi, Yên Hồng và Mẹ bế Việt Trung).

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Đọc sách: Hồi ký PHÚ RIỀNG ĐỎ


PHÚ RIỀNG ĐỎ [1]


Thiếu tướng Trần Tử Bình kể
Nhà sử học Hà Ân ghi

NGÃ BA ĐƯỜNG

Cuối năm 1926, tôi bị đuổi khỏi Trường dòng La-tinh Hoàng Nguyên. Cha mẹ tôi nghe tin rất buồn. Quê nội tôi ở Tiêu Động (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam), vốn là làng công giáo toàn tòng. Do đó cũng dễ hiểu tại sao cha mẹ tôi tức giận khi nghe tin con trai bị đuổi ra khỏi Chủng viện vì "làm loạn". Mà tội làm loạn là tội gì vậy? Chẳng nhẽ cùng anh em trong Chủng viện tham gia đấu tranh để bảo vệ danh dự của con người mà là làm loạn sao? Sự thật là thế này:
Mùa hè năm trước được nghỉ, tôi đi Nam Định và Hà Nội chơi. Nhân chuyến đi này, tôi được bà con đưa tân thư[2] cho mà đọc. Đọc rồi vỡ nhẽ rất nhiều. Sau đó tôi lại được cùng đồng bào rầm rộ đấu tranh đòi đế quốc phải thả cụ Phan Bội Châu. Hết hè trở lại Chủng viện, tôi thấy Chủng viện cũng chuyển mình. Tiếng dội của phong trào yêu nước đang tràn vào Trường dòng Hoàng Nguyên. Mầm mống cách mạng ấy gặp được một miếng đất tốt. Đó là cuộc sống ngột ngạt, đoạ đầy, bị khinh rẻ của chúng tôi trong Chủng viện.


Lúc bấy giờ, người cầm đầu Chủng viện Hoàng Nguyên là cố Quý, một cố đạo người Ca-na-da. Cố Quý sống thế này nhưng nói thế khác. Ông ta ăn ở như một tên vua con. Bữa cơm cá thịt ê hề đầy một bàn, ăn không hết. Đêm đêm không có đàn bà thì ông ta không ngủ nổi. Ấy thế mà khi cố Quý đứng làm lễ nom nghiêm trang lạ thường. Sau lưng ông ta đèn nến sáng choang, cố Quý cao lớn đường bệ, cầm bánh thánh, rượu lễ giơ lên:
- Này là mình Tao...
- Này là máu Tao....
Bên dưới, bọn chúng tôi phải gằm đầu lầm rầm đọc kinh hết sức kính cẩn.
Tôi vốn tò mò, bướng bỉnh, bất cứ chuyện gì cũng phải cầm được tận tay, xem được tận mắt rồi mới tin. Nghe cố Quý nói, tôi ngờ lắm. Tôi tìm cách xem bánh thánh, rượu lễ của cố Quý kỳ lạ, quý giá đến đâu? Rình hôm cố Quý đi vắng, tôi lấy trộm chìa khoá nhà chầu, lẻn vào, mở hòm đựng bánh, rượu. Tôi thấy bánh, rượu cũng chẳng khác gì bánh rượu thường. Tôi ăn thử, uống thử, cũng chẳng thấy khác quái gì. Thì ra cố Quý chỉ lòe người. Từ đó, tôi chén bánh thánh cho kỳ no. Bởi vì trong Chủng viện, chúng tôi ăn uống rất kham khổ, mỗi bữa cơm chỉ có một đĩa rau muống già, cơm độn hai phần ngô, một phần gạo hẩm, cá thịt thì hiếm như vàng.
Từ cái chuyện bánh thánh, rượu lễ ấy, tôi đâm ngờ các chuyện khác. Tôi để ý rình nên biết được lắm cái hay. Hồi ấy, bà con công giáo trong vùng thường được cố Quý ban nước phép về để trừ tà ma. Nước phép ấy chỉ là nước lã múc ngoài giếng rồi cố Quý trộn ít muối ăn cho có vị là lạ. Nhưng muốn được cố Quý cho thứ nước phép ấy, đồng bào phải có tiền, có vật lễ lạt mới được y ban cho mỗi người một chai nhỏ xíu bằng chai dầu Nhị Thiên Đường.
Thế là một chuyện. Còn việc học tập của chúng tôi cũng đáng chú ý. Sách vở toàn loại làm cho người ta sợ phát khiếp. Trong số sách ấy, tôi còn nhớ có cuốn "Chết rồi đi đâu?". Sách dẫn toàn chuyện kinh khủng: Nào hoả ngục, nào ma quỷ, nào gông xiềng, nào cảnh nóng đến sắp chết khát mà không bao giờ được uống... Đúng là loại sách không làm cho người ta tin Chúa mà chỉ sợ bị Chúa trừng phạt. Kết quả là khi đã không tin được ở các loại sách vở, học hành thì phải tìm niềm tin của mình ở hướng khác.
Tôi là một trong số những người không tin lời cố Quý và những sách vở lưu hành tại Chủng viện Hoàng Nguyên. Tôi phải tìm con đường của tôi. Vậy mà buộc tội tôi thì thật quá đáng!
Đấy là nói về niềm tin. Còn về lòng yêu nước của những thanh niên như chúng tôi thì cố Quý xúc phạm rất nặng nề. Cố Quý có thái độ đáng ghét lạ thường. Y có biệt tài chửi đủ các giọng, thôi thì từ thô tục đến kín đáo, từ phũ phàng đến sâu cay. Y chửi chúng tôi như tát nước vào mặt suốt cả ngày. Nào: "Người An-nam ngu! Người An-nam dốt!", nào "Người An-nam lười, người An-nam hay ăn cắp!". Thật nhục nhã. Chúng tôi giận tím ruột, tím gan.
Nhưng hễ có một ai trong số chúng tôi dám lên tiếng phản đối thì cố Quý thẳng tay đuổi khỏi trường. Thế lực của y rất mạnh. Y lên huyện, lên tỉnh, vào dinh chánh sứ, vào dinh tổng đốc xoành xoạch. Y gặp bọn quan lại Tây và Nam triều cả lúc đêm hôm khuya khoắt. Mãi sau này, khi hoạt động cách mạng đã có kinh nghiệm tôi mới rõ hành động của cố Quý lúc ấy đúng là hành động của một tên gián điệp đội lốt thầy tu.
Vào năm 1926, trong nước có phong trào đấu tranh rầm rộ với thực dân Pháp, đòi thả tự do cho cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan là một nhà ái quốc lão thành chân chính. Cụ khởi xướng ra phong trào Đông Du, khuyến khích thanh niên xuất dương ra nước ngoài học những nghề hay, tài lạ, có thể ích quốc lợi dân.
Bọn chúng tôi rất thích nghe chuyện các bậc đàn anh trốn sang Tàu, sang Nhật. Họ được theo học tại các trường nổi tiếng: Nào là Võ bị quân quan học hiệu Nhật; nào là trường lục quân, nào trường công binh, trường kỹ thuật; rồi thì nay Hoàng Phố, Thiên Tân, mai Đông Kinh, Vũ Hán. Nghe cứ mê cả người. Dân ta vốn dĩ hiếu học xưa nay, lại thêm thù nhà nợ nước nung nấu, thôi thúc, nên thanh niên ta nghe lời cụ Phan Bội Châu ra nước ngoài rất nhiều. Mà ở đâu học cũng toàn ngồi ghế nhất, ghế nhì, cử chỉ phong thái đĩnh đạc, chẳng ai dám coi họ là "vong quốc nô".
Những chuyện đó lan truyền từ miệng người này sang tai người khác rồi đến với chúng tôi, kích thích lòng yêu nước, khơi gợi tự hào dân tộc, khiến cho ai nấy đều ôm ấp mộng xuất dương, học thành tài về giúp nước.
Bọn đế quốc rất sợ chuyện đó. Chúng bèn tư thông với bọn quân phiệt Tàu, lừa bắt được cụ Phan trong tô giới Pháp, đưa về nước. Chúng âm mưu đưa cụ ra toà để khép tội nặng mà xử tử. Chúng cũng định họp phiên toà kín xử cụ Phan, nhưng dân ta lại dò được tin ấy. Lập tức suốt từ Nam chí Bắc, thư xin ân xá, kiến nghị đòi thả gửi cho Toàn quyền, Thống sứ Tây như bươm bướm. Bọn chúng buộc phải đưa ra xử công khai và an trí cụ Phan ở Huế.
Trong khi đó, ở Chủng viện, cố Quý dò xét chúng tôi rất dữ. Y để ý đến những người xưa nay bướng bỉnh, không nghe lời. Trong số bị tình nghi có tôi. Tại Hoàng Nguyên, tôi học đã không chăm chỉ lại hay tập gậy. Cứ chiều mát, đêm trăng, tôi rủ vài người cùng chí hướng ra sân sau Chủng viện tập gậy. Cố Quý muốn cấm cũng không có lý để cấm. Chúng tôi chỉ tập thể thao chứ có gì mà cấm? Nhưng trong thâm tâm tôi nghĩ tập võ nghệ để sau này giúp nước như ông Đề Thám, cụ Phan Đình Phùng. Tôi được nghe, được đọc những chuyện về tài võ nghệ của các tướng dưới quyền ông Đề, cụ Phan... Những câu chuyện như thế kích thích tâm trí thanh niên chúng tôi rất mạnh. Ngoài ra, tôi nghĩ tập võ còn có thể giữ mình khi xông pha xuất dương, một thân nơi đất khách quê người. Tôi cứ tập, cố Quý cứ rình. Y ghi tên tôi vào sổ đen, chờ dịp trị tội.
Còn cái thói quen chửi bới của y mỗi ngày mỗi tăng. Anh em học sinh trong Chủng viện rất tức. Ai nấy đều chán đời sống ở Chủng viện Hoàng Nguyên.
Mấy tháng sau, trong nước lại có một phong trào đấu tranh mới.
Vào một buổi tối, Hoàng Nguyên nhận được tin cụ Phan Chu Trinh chết. Cụ là người đã viết thư cho tên vua Khải Định kể những tội phản quốc của y, khi tên vua bù nhìn này sang dự đấu xảo bên Pháp. Cụ cũng đã từ chức để đi nước ngoài học hỏi cái lạ, cái hay đem về giúp nước.
Ta không bàn ở đây xem cái sai cái đúng của cụ. Chỉ biết rằng cụ là một người yêu nước nên khi nghe tin cụ từ trần, nhân dân ta vô cùng thương tiếc. Khắp nơi đâu đâu cũng họp nhau làm lễ để tang cụ. Chỉ thoáng chốc tin lan từ thành phố này đến tỉnh lỵ khác, rồi khắp cả nước thành một phong trào để tang cụ Phan. Tình yêu quê hương đất nước luôn được nuôi dưỡng âm ỉ trong lòng dân; hễ gặp thời cơ thuận tiện là bùng lên, lan rộng khắp nơi. Vì vậy, nhiều người tuy không tán thành đường lối của cụ Phan Chu Trinh, nhưng họ cũng tham gia đấu tranh để thoả lòng yêu nước đang phải nén lại lúc bấy giờ.
Tại Trường dòng Hoàng Nguyên, chúng tôi cũng để tang cụ Phan. Tôi là người khởi xướng và cầm đầu vụ này. Tất nhiên cố Quý không đồng ý. Hôm ấy, anh em tụ tập ở sân Chủng viện, người nào cũng mang băng tang đen trên mũ hoặc cánh tay. Cố Quý đã có lệnh cấm mà không được. Y giận tím mặt, bước ra thềm, gọi chúng tôi lại gần và hầm hầm bảo:
- Người An-nam kém văn minh. Người An-nam ngu dốt, vô ơn, không biết nghe lời những người nuôi dạy mình.
Tôi bước ra, đứng ngay trước hàng người, nói lại:
- Thưa cha, chúng con nghe cha dạy: ai ai cũng là con của Chúa. Thế mà cha cứ rủa dân An-nam ngu, dốt, vô ơn. Chúng con nghĩ rằng người An-nam ngu, người An-nam dốt nhưng họ làm ra lúa ra gạo nuôi sống người ta. Cha cũng vẫn ăn lúa gạo ấy. Chửi mắng thế hoá ra ăn quả không nhớ kẻ trồng cây? Còn chúng con để tang một người danh tiếng trong nước, như thế chẳng lẽ cũng là ngu dốt, vô ơn sao?
Chung quanh tôi, anh em nhao nhao ủng hộ. Cố Quý vừa giận vừa ngượng tái mặt, bỏ về ngay. Ba ngày sau, y lấy quyền cầm đầu Chủng viện đuổi ba học trò mà không nêu một lý do gì. Ba người này, y chọn trong số thường ngày vẫn tỏ ra "cứng đầu cứng cổ" không chịu nghe theo lời. Tất nhiên tôi là người đầu tiên được y chấm.
Đấy, tội "làm loạn" của tôi như thế đó!
Thế là tôi rời Hoàng Nguyên. Tưởng suốt đời thoát được cái nợ gặp gỡ hàng ngày với cố Quý. Nào ngờ, đến năm 1944, tôi lại chạm trán cố Quý. Cứ y như hai dòng nước chảy ngược ắt phải gặp nhau. Bấy giờ vị thế của hai bên đã khác hẳn. Cố Quý vẫn là cố Quý. Y giữ nhiệm vụ rửa tội, ban phép cho tù nhân trong Hoả Lò Hà Nội. (Nhưng kỳ thực để điều tra tin tức cho Sở mật thám). Còn tôi thì đang bị giam, nhưng không còn là một thanh niên mới lớn, ngây thơ nữa. Tôi đã được Đảng, được cách mạng rèn luyện thành một người có kinh nghiệm đấu tranh.
Gặp cố Quý, tôi nhận ra y nhưng y không nhận ra tôi. Biết rõ đời tư của y tôi bảo với các đồng chí cùng bị giam: “Các cậu muốn cười một mẻ không?”. Mọi người tán thành. Tên mật thám khoác áo thầy tu này không lúc nào bỏ lỡ việc tuyên truyền, giới thiệu các món "thuốc tinh thần" của hắn. Y hỏi tôi có cần xem sách báo gì không? Tôi đáp: “Rất cần, càng nhiều càng tốt”. Y đưa cho tôi mượn một chồng sách đạo. Tôi nhận tất vì có thể dùng những phần giấy trắng vào việc biên soạn tài liệu bí mật trong tù. Cố Quý giả nhân giả nghĩa hỏi tôi:
- Con làm sao mà phải mặc áo tù? Con phạm tội gì thế?
Tôi đáp:
- Con chả có tội gì cả. Còn cha, sao cha lại mặc áo dài?
Nghe tôi hỏi, anh em tù ở cùng buồng phá ra cười. Nguyên do là có một chuyện tiếu lâm về cái áo dài đó. Cố Quý đực mặt ra. Tôi lại hỏi thêm:
- Thế hôm nay cha có củ hành củ tỏi gì mang theo không?
Anh em lại phá lên cười trong khi cố Quý không hiểu mô tê gì cả. Thường ngày cố Quý vẫn đem hành tỏi, bánh vào để mua chuộc tù. Tôi hỏi, y không ngờ tôi lại dùng những điều mà y đã dạy ở Trường dòng Hoàng Nguyên ngày nào để đem ra đập lại y. Chẳng là bên đạo có nhiều điều răn. Điều răn thứ tám là: "Không nên nói lời hành tỏi", có nghĩa đừng dò la, bày đặt chuyện cho người khác.
Tôi hỏi cố Quý:
- Cha có biết tại sao chúa Giê-su lại bị đóng đinh trên thập tự không?
Cố Quý đáp:
- Chúa Giê-su chuộc tội thiên hạ.
Tôi cười:
- Không phải. Chúa Giê-su vận động dân Do Thái nổi lên làm cách mạng, đánh đổ đế quốc La Mã và bọn tay sai Ê-rốt. Người bị thất bại, chúng bắt được nên chúng xử tử đấy thôi.
Thế là cố Quý lảng mất vì sợ tôi cứ đem sự thật ra hỏi. Hôm ấy, anh em ở Hỏa Lò được một bữa cười nôn ruột.
Chuyện sau này thì như thế, chứ lúc bấy giờ cố Quý đuổi thẳng thừng bọn tôi ra khỏi Trường dòng Hoàng Nguyên.
Quê tôi biết tin tôi bị đuổi học. Mẹ tôi phiền muộn và thất vọng. Ở một làng công giáo toàn tòng, gia đình nào có con em bị đuổi khỏi Chủng viện, bị đuổi khỏi nhà thờ vì lý do "làm loạn trái ý Chúa" thì rất khó sống. Họ hàng bà con nói ra nói vào. Thôi thì chả thiếu lời cay tiếng độc, nói cạnh nói khoé, chửi kẻ "vô đạo". Với một người đàn bà ít học, lại theo đạo từ nhỏ, sự phiền muộn của mẹ tôi là lẽ tự nhiên.
Đã thế, mẹ tôi lại còn thất vọng vì tôi. Quê tôi vốn là vùng đồng trũng, nghèo xác xơ, công điền ít ỏi, bình quân mỗi xuất đinh hai sào rưỡi[3]. Có tí bờ xôi, ruộng mật nào là vào tay kỳ hào, lý dịch hết cả. Dân nghèo chỉ được những mảnh chiêm khê, mùa úng, làm cả năm chả đủ tiền nộp thuế. Ai chẳng mong mỏi con em ăn nên làm ra để đỡ túng thiếu. Nhà tôi lại nghèo vào loại nhất làng. Cha tôi sống bằng nghề gắp phân, bán cho các nhà có ruộng. Suốt ngày, đôi sảo trên vai, cái gắp trong tay, ông cụ lang thang khắp vùng lân cận đến tối mịt mới về nhà. Vất vả như vậy nhưng chẳng kiếm đủ nuôi thân, nói gì đến việc nuôi ba anh em tôi.
Ngay đến những ngày trước Cách mạng Tháng Tám, cha tôi vẫn còn phải đóng khố. Cơm chẳng đủ ăn làm sao đến sự học hành của anh em tôi. Ấy thế mà cha mẹ tôi vẫn cố sống cố chết cho tôi đi học.
Hồi còn bé, bên cạnh nhà tôi có một ông đồ tên là Lê Hữu Niên dạy trẻ học a, b, c. Tôi ham học, thường ngày ngồi nghe trộm ở ngoài thềm. Trong nhà, cụ đồ dạy chữ nào, bên ngoài tôi dùng gạch non viết chữ ấy lên thềm. Chờ mãi một năm sau, mẹ tôi mới kiếm được ít tiền, xin cho tôi được vào học. Bốn tháng sau tôi đã đọc và viết được. Tiền mẹ kiếm được chỉ đủ trả tiền học, còn tiền mua giấy bút tôi phải xoay lấy. Cứ sáng tôi đi học, chiều đem giỏ bắt cua mang bán ở chợ. Ngoài ra, tôi còn phải chăn trâu lúc tháng năm ngày mùa cho thầy học, rồi phải cắt cỏ, bế em cho thầy. Lo cho tôi học hành quả thật mẹ tôi rất cực.
Vì thế, việc học tại Trường dòng Hoàng Nguyên của tôi được mẹ tôi đặt nhiều kỳ vọng: Trước hết là đỡ được một miệng ăn cho gia đình, sau nữa hy vọng con đỗ đạt có chức trong đạo, kiếm tiền cho cha mẹ. Thình lình nghe tin tôi bị đuổi học thì thử hỏi lòng mẹ ra sao? Bà cụ gầm thét, chửi mắng tôi. Bây giờ nghĩ đến, tôi vẫn còn thương cụ.
Riêng tôi, việc bị đuổi khỏi Chủng viện Hoàng Nguyên không làm tôi buồn phiền thất vọng. Giáo lý mất dần giá trị trong niềm tin ngay từ hồi tôi còn nhỏ. Lúc bảy tám tuổi, còn ở làng, tôi phải học kinh. Người dạy là ông giáo Trung đánh đòn như két. Tôi hay nghịch nên giáo Trung rất ghét, y đánh tôi luôn tay. Có một lần, y dùng roi cứng đánh rất đau. Tôi phẫn uất quá, văng tục chửi lại và bỏ đạo đến nửa năm. Giáo Trung cho trẻ con vây bắt tôi, định trói đem về bắt nhịn cơm, đánh đòn. Tôi vác dao rượt bầy trẻ chạy tán loạn. Sau, cụ đạo phải gọi mẹ tôi đến buộc phải dụ dỗ tôi trở lại. Lại một lần, mẹ tôi xin cho tôi học ở nhà xứ Trung Hiếu. Lúc đó học ở nhà xứ thì làm lụng là chủ yếu. Ngoài việc học kinh giúp lễ, bưng nến bưng sáp ra, tôi còn phải làm cơm, gánh nước, giặt quần giặt áo, đầu tắt mặt tối suốt ngày. Học thì học sách đạo bằng chữ Nôm và chữ La-tinh.
Ở nhà xứ Trung Hiếu có thầy già Sân là quản gia giữ tất cả tay hòm chìa khoá. Y học kinh rất giỏi, cứ làu làu không một chút ngắc ngứ; rượu cũng rất giỏi, tối tối y uống một mình hết bình nọ đến bình kia. Chuyện gái, Sân cũng rất tài; nhà xứ giao cho y coi việc thuê mướn thợ cấy, cắt cỏ, làm ruộng cho nhà xứ. Y thuê ngày, còn đến đêm lại gạ gẫm ngủ bậy bạ. Y đánh chúng tôi cũng ra phết. Ngủ gật, đòn. Không thuộc bài, đòn. Làm chậm trễ, đòn. Dường như y nghiện đánh chúng tôi, có lỗi cũng đòn mà không lỗi cũng đòn. Y bắt chúng tôi chổng mông, trật quần, dùng roi phết rất chính xác. Đánh xong, y còn bắt ăn cơm muối, ngủ đất.
Cảnh sống của những lớp người trong nhà xứ Trung Hiếu cách biệt rõ rệt. Nhờ tiền xin lễ của cả xứ (gồm sáu họ đạo từ Ao Cá, Ao Cách, đến Kẽm Trống, Sở Kiện), nhờ tô tức của đồng bào nhận ruộng rẽ, nhờ tiền chạy kiện (cha chánh xứ thường giao dịch với phủ, huyện, toà sứ tỉnh, nói cho những người đang có kiện tụng để lấy tiền) nên đời sống rất cao. Cụ đạo ngày cơm ba bữa, bữa nào cũng chim hầm, cá rán, gà quay… một bàn đày ụ. Còn chúng tôi thì chỉ có cơm độn ngô mọt với rau muống tứ thời. Mà nào việc học có đem lại một chút hy vọng gì, nếu không lên nổi thì suốt đời làm thầy già với ngày hai bữa cơm suông, tối manh chiếu đắp, một năm được cấp hai bộ quần áo vải thô. Sống âm thầm heo hút, khi ốm đau chẳng có ai săn sóc. Tôi nhớ ngày ấy có một ông thầy già ốm mười hai ngày liền rồi chết luôn trong xó buồng tối. Thế mà người ta không biết hay cố tình không biết, cứ chiếu lệ ngày hai bát cơm mang tới. Hai mươi bốn bát xếp thành dãy ở chân tường. Thật là thê thảm, đau xót. Thật không phải kiếp người!
Tất cả những điều “mục kích” ở Tiêu Động, ở Trung Hiếu, ở Hoàng Nguyên làm cho tôi hết tin tưởng ở sự công bằng trong giáo lý. Vì thế, bước ra khỏi cổng Trường dòng Hoàng Nguyên, tôi tịnh không có chút buồn phiền và thất vọng nào.
Nhưng ra khỏi Trường dòng Hoàng Nguyên, quả thật tôi bỡ ngỡ giữa ngã ba đường… Sự lựa chọn chính xác ngả mình phải theo là tối quan trọng! Nó sẽ dẫn tôi đến chỗ trở thành một người hữu dụng cho xã hội, hay đưa tôi đến chỗ bế tắc, sống thừa chết uổng.
Chọn được đường thật khó, chẳng phải chốc lát thấy ngay. Trong lúc chưa biết đi đâu, tôi đành tạm thời kiếm đất dung thân. Về nhà thì nhà nghèo không có cách sống mà có muốn về cũng không được. Họ hàng, làng xóm, cha mẹ sẽ không để tôi yên. Trong tay tôi không một chút nghề nghiệp, trong óc chỉ một dúm chữ Nôm và La-tinh. “Đi đâu bây giờ đây?”, “Sống bằng gì bây giờ đây?”, “Sống bằng cách nào bây giờ đây?”. Mấy câu hỏi cứ quay cuồng trong đầu tôi.
Cuối cùng tôi đành về Vĩnh Trị, xin vào nhà xứ ở với cụ Phổ. Vĩnh Trị là nơi tôi đã từng sống để theo học tiếng La-tinh. Cụ Phổ là người Việt. Do sự phân biệt đối xử giữa cố Tây và cố ta nên cụ Phổ bất mãn chửi Tây luôn mồm.
Chính cũng do cách đối xử này, ngay từ năm 1919, một phong trào chống linh mục người nước ngoài đã nổi lên trong Giáo hội Việt Nam, đòi quyền bình đẳng giữa cố đạo Tây và cố đạo ta. Cụ Phổ nằm trong số người có tư tưởng như vậy.
Ở Vĩnh Trị, cụ Phổ cho tôi đi dạy kinh, tôi nhận làm để kiếm sống. Dạy kinh thì một năm được hai bộ quần áo, một tháng được 60 bát gạo, hai chai tương và mấy hào làm tiền mua rau, tiêu vặt. Cuộc sống của tôi cứ như vậy, tha thẩn hết làng này sang làng khác. Lê thê, bế tắc. Hàng ngày phải dạy những bài kinh đối với tôi không còn sức hấp dẫn. Bạn bè quen thuộc của tôi chỉ có đôi ba người, trong số đó có một người làm nghề hương sư ở Vĩnh Trị. Không ngờ chính ở đây, tôi tìm thấy đường sống cho mình.
Anh hương sư Vĩnh Trị có nhiều sách báo mới. Mỗi lần đến thăm, tôi thường mượn về đọc. Thuở ấy những hương sư được coi là người có học, đọc sách báo nhiều. Tôi thích tìm đến họ để giao thiệp. Việc này tôi phải làm giấu vì bên đạo cấm tiệt chuyện giao du với những người đọc sách tân thư.
Hương sư Vĩnh Trị tâm sự với tôi nhiều về đời sống khổ cực của đồng bào Vĩnh Trị, Trên vùng quê nghèo xơ xác, bà con chuyên sống bằng nghề làm ảnh và làm tràng hạt cho nhà chung. Còn tôi, tôi cũng nói ra những nỗi niềm riêng của mình. Gặp một người cùng yêu nước, để có thể thổ lộ những ý nghĩ phải giấu kín từ đáy lòng, thật đáng quý. Tôi kể cho anh nghe về đời sống trong Trường dòng La-tinh, về những điều thu nhận ở đó. Kinh kệ thì thuộc làu làu, nhưng thật không còn rung động tâm trí tôi. Những chuyện tôi thích và tích tụ trong lòng tôi khi nghe giảng ở trường lại là những sự tích lịch sử của những anh hùng thời cổ. Nào là cậu bé Đa-vít chăn cừu dám đứng ra vì nhân dân, đương đầu với tướng giặc khổng lồ Gô-li-át dữ tợn. Tôi thích hình ảnh chú bé dũng cảm ra trận, dùng bẫy bắn đá, chú dám đánh và thắng được Gô-li-át. Nào là chuyện nữ anh hùng Gian-đa[4], cô gái chăn chiên người Pháp, dẫn đầu nhân dân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Lúc bị giặc bắt, nữ anh hùng bị chúng đốt chết trên giàn lửa. Ngoài ra, những gương dũng cảm tôi đọc một cách vụng trộm trong các tân thư. Người làm tôi kính phục nhất là ông Đề Thám, con Hùm Yên Thế, chống Tây mấy chục năm trường, đến chết cũng không chịu khuất phục.
Những tâm sự của tôi được anh hương sư Vĩnh Trị nói lại với một người, người này sẽ vạch cho tôi hướng đi đúng. Tôi rất xúc động mỗi khi nghĩ đến. Đó là anh Tống Văn Trân. Tôi được gặp anh Trân hai lần ở ngoài Bắc, hai lần gặp làm tôi nhớ suốt đời.
Vào khoảng tháng 5 năm 1927, tôi dạy kinh trong huyện Phong Doanh (nay là huyện Ý Yên, Nam Định). Một buổi trưa tháng tư, trời nắng chang chang, tôi đi trên đê đến một làng dạy kinh. Cánh đồng hai bên đường lúa chiêm chín vàng. Cảnh đẹp thế nhưng tôi chỉ âm thầm nghĩ về cảnh ngộ bế tắc của mình. Bỗng từ đằng xa thấy một người đạp xe lại ngược chiều. Người đó mặc áo trắng, đội mũ cát trắng, đi giầy ba-ta. Đến gần tôi, anh xuống xe và chào trước. Chưa từng gặp lần nào nhưng người đó có dáng bộ đặc biệt khiến tôi phải chú ý. Anh có cặp mắt sáng long lanh, người dong dỏng cao. Đầu anh to, hàm răng hơi hô. Trán anh rộng và giô, vừa bướng bỉnh vừa kiên quyết. Lúc anh nói, tiếng nghe oang oang, cởi mở vô cùng. Đối với tôi, anh có vẻ anh hùng hảo hán. Anh tự giới thiệu rồi nói:
- Nghe nói nhiều đến ông, tôi muốn tìm gặp nói chuyện cho vui.
Thế là hai chúng tôi đi bên nhau trên đê, dọc theo con sông Vĩnh Trị, tâm sự hàng giờ đồng hồ. Anh Trân hỏi tôi:
- Thế bây giờ, ông sinh sống thế nào?
Chẳng hiểu tại sao mới qua ít phút trao đổi mà tôi mến anh, tin anh ngay. Tôi thổ lộ hết nỗi buồn niềm vui với anh. Anh lại hỏi tôi:
- Thế ông nghĩ về tương lai, về đất nước thế nào?
Tôi kể hết sự bế tắc chưa có hướng đi. Anh Trân bèn nói với tôi về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Nghe chuyện anh, tôi linh cảm đã được gặp một người thế nào! Anh lại còn nói về “hội kín”. Hội kín tôi đã từng nghe từ năm 1925, 1926. Những người cầm đầu Chủng viện Hoàng Nguyên, như cố Quý, gọi hội ấy là “hội thờ bò”(?). Vậy mà hôm ấy, anh Trân nói tới “hội kín” rất phù hợp với lòng khát khao tìm hiểu một con đường cứu nước của tôi. Vì vậy, tôi nghe rất say mê.
Sau hàng giờ tâm sự dọc đê, anh Trân cáo từ và hẹn tôi đến gặp anh ở nhà riêng. Trước khi từ biệt, anh còn dặn tôi giữ kín không cho ai biết hai người đã gặp nhau. Anh nói thêm mọt câu thay lời chào tạm biệt:
- Thanh niên ta phải biết đồng tâm cứu nước!
Gặp anh Trân, tôi đã tìm thấy con đường cho mình. Lúc đó, tôi nghĩ rằng anh Trân chắc có chân trong hội kín. Theo anh, tôi sẽ tìm được con đường cứu nước. Tôi sẽ được xuất dương học hỏi rồi về giúp nước. Và tôi chỉ thắc mắc có một điều là tại sao anh lại biết đến tôi. Mãi sau tôi mới rõ người giới thiệu tôi với anh Trân chính là hương sư Vĩnh Trị.
Sau buổi gặp anh Trân, đêm hôm ấy, tôi thao thức trắng đêm. Tôi khao khát được gặp lại anh, nghe anh nói chuyện. Rất đúng hẹn tôi có mặt tại nhà anh ở một làng không xa. Đây là lần gặp thứ hai.
Lần này, anh Trân nói cho tôi nghe nhiều điều về một nước xa xôi mà ở đấy công nhân, nông dân làm cách mạng, cướp chính quyền rồi tự mình làm chủ vận mệnh của mình. Đó là Liên bang Xô viết. Anh cho tôi biết anh là hội viên của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Anh khuyên tôi gắng sức học hỏi rồi sẽ được gia nhập, làm hội viên.
Tôi ngỏ ý muốn được xuất dương. Anh Trân đáp:
- Đi Nam Kỳ thì dễ xuất dương. Nhưng xuất dương cũng là để cứu nước, để làm cách mạng. Còn muốn làm cách mạng đánh đổ Tây thì phải dựa vào công nhân, nông dân trong nước. Muốn giành được độc lập dân tộc thì phải đánh đổ đế quốc. Muốn giành ruộng đất cho dân cày nghèo thì phải đánh đổ phong kiến, địa chủ.
Anh lại khuyên:
- Muốn được công nông tin cậy để cùng nhau làm cách mạng thì phải công nhân hoá.
Tôi bỡ ngỡ hỏi:
- Công nhân hoá là thế nào?
Anh Trân giảng giải:
- Phải lăn lộn vào những nơi có công nhân như bến tàu, nhà máy, đồn điền cao su. Của cải trên đời này do hai bàn tay họ làm ra cả, họ sẽ làm chủ vận mệnh nhân loại. Phải lăn vào sống với họ, vận động và học tập họ để cùng nhau làm cách mạng mới thành công được.
Hai lần gặp gỡ anh Trân trong vài giờ đồng hồ nhưng đã gỡ cho tôi nút rối hàng năm trời mà không tìm cách gỡ nổi. Không may cho tôi, sau đó anh Trân phải rời Vĩnh Trị đi Hải Phòng, không kịp từ biệt. Anh đến thình lình, anh đi cũng thình lình để lại bao nỗi nhớ tiếc trong lòng, làm tôi bỡ ngỡ thiếu người đưa đường chỉ lối.
(Sau này, có hai lần tôi gặp lại anh Trân, đó là lần gặp anh ở Hải Phòng và lần trên tầu ra Côn Đảo. Lần ra Côn Đảo tôi đã là một đảng viên Cộng sản, đang bị đế quốc Pháp đày đi Côn Đảo. Con tàu đưa chúng tôi qua Ô Cấp[5] (Nam Kỳ), gặp tàu Clốt-sáp[6] cũng giải tù chính trị từ Bắc Kỳ đưa ra Côn Đảo. Đứng bên này tàu, nhìn qua cửa khoang, tôi sung sướng đến nóng người khi thấy anh em Clốt-sáp hiên ngang trương cờ búa liềm đỏ thắm ngay trên tàu của giặc. Lúc ấy là đầu năm 1930. Anh em tù bên tàu Clốt-sáp bị dồn sang tàu chúng tôi để cùng ra Côn Đảo. Tôi đến ngay để gặp người trương cờ bữa ấy, định biểu lộ lòng khâm phục. Tưởng ai, té ra lại là người quen cũ: Anh Tống Văn Trân!).
Hai lần đầu gặp gỡ anh Trân tuy ngắn ngủi nhưng đã tăng thêm lòng quyết tâm, tăng thêm lòng tin của tôi vào con đường mới tìm được: Con đường công nhân hoá, vận động cách mạng. Do anh Trân rời Vĩnh Trị đột ngột, tôi chưa được vinh dự đứng trong hàng ngũ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, nhưng lời khuyên của anh thì tôi không thể nào quên. Tôi quyết làm theo anh.
Bấy giờ vào giữa năm 1927. Đế quốc Pháp đang ra sức bóc lột dân ta với kế hoạch khai thác Đông Dương lần thứ hai một cách quy mô. Nhà máy, đồn điền mọc lên rất nhiều. Các công trình xây dựng, đường sá, cầu cống mở mang nhanh chóng. Tất cả vốn liếng, nhân tài, vật lực tung ra trong giai đoạn khai thác này, đều được rút từ xương máu của nhân dân ta. Ruộng đất bị chiếm. Những đồn điền, như đồn điền Chi Nê, lấy của dân hàng nghìn mẫu ruộng. Biết bao thứ thuế tàn ác, vô lý được đặt ra, trút lên đầu, lên cổ dân ta, khiến cho dân ta đã đói rách lại thêm đói rách.
Khắp các ngả đường, quán chợ, dán la liệt những tờ thông báo mộ phu đi Tân Thế Giới, đi Nam Kỳ làm phu mỏ, phu đồn điền. Thực dân Pháp đang khan hiếm nhân công cho kế hoạch khai thác bóc lột. Vì vậy những tờ thông báo đầy rẫy những lời đường mật: Nào là đi một thời hạn ba năm, hết hạn sẽ được trả về quê, mọi thứ phí tổn tàu xe được trả hết; nào là cơm ăn ngày ba bữa no nê, có thịt bò, có cá; gạo một tháng hai mươi bốn cân, quần áo làm việc mỗi năm hai bộ; nào là khi ốm sẽ được săn sóc, thuốc men không phải nộp tiền; nào là trước khi đi mỗi người sẽ được phát mười đồng để chi phí những khoản cần thiết trước mắt v.v...
Mộ lấy không đủ, thực dân Pháp còn tung bọn cai thầu ta đi khắp nơi rủ rê, dỗ dành những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ mất ruộng, đang thất cơ lỡ vận. Sở mộ phu nhan nhản khắp nơi. Bọn thầu khoán đua nhau nói rồng nói phượng cho cuộc sống thần tiên ở các đồn điền cao su vì cứ mỗi người phu nộp cho Tây, chúng được hai đồng.
Tôi không bị những lời đường mật và những thông báo ngọt xớt ấy đánh lừa. Tôi biết đi là sẽ rất khổ sở, nguy hiểm, thậm chí có thể đi mà chưa biết có ngày về. Nhưng nếu ở lại tôi cũng chết. Vô nghề nghiệp, vô gia cư, một thước đất cắm dùi không có, nếu không đi tìm con đường sống, con đường cách mạng thì cũng chẳng còn đường nào khác. Hơn nữa con đường của tôi vào đồn điền cao su đã vạch rồi. Có vào đây tôi mới thực hiện được ý định “công nhân hoá” để vận động cách mạng.
Cùng với hàng trăm đồng bào các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình, tôi ghi tên vào sổ mộ phu đi làm ở đồn điền cao su Nam Kỳ. Thế là bắt đầu một quãng đời làm cho tôi hiểu thấu thế nào là cách mạng, hiểu thấu những người công nhân, giai cấp lãnh đạo cách mạng trong thời đại hiện nay.


ĐƯỜNG VÀO HỎA NGỤC
Người ta thường nói công nhân cao su có tinh thần đấu tranh quyết liệt đến mức một sống một chết, không bao giờ chịu lùi. Điều đó chẳng sai, bởi vì công nhân cao su không những bị bóc lột, chà đạp đến cực độ trong đồn điền cao su mà họ còn bị bóc lột, chà đạp ngay từ khi còn đang trên đường đi tới những địa ngục trần gian.
Vào tháng 6 năm 1927, chúng tôi, những phu mới mộ, tập trung hàng mấy trăm con người sống chen chúc trong những lán trại của Sở mộ phu cất tại Hạ Lý, Hải Phòng. Cái cảnh phu mộ chờ tàu nom thật não lòng. Chúng tôi toàn là bà con dân cày mấy tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình. Ruộng một tấc không có, tiền một đồng kẽm cũng không. Bà con cùng đường phải đem nhau đi phu cao su, chứ chẳng mấy ai mắc lừa những lời dụ dỗ của bọn chủ mộ phu ấy. Có rời quê mới biết lòng nhau. Bà con nông dân ta xưa nay ở quê mấy khi để ý đến những chuyện bên ngoài luỹ tre làng. Thường ai nấy cắm cúi làm ăn tối ngày, hết chiêm đến mùa, hết làm phân đến trồng màu, có bao giờ được rảnh rang để nghĩ chuyện đó đây.
Ấy thế mà vừa rời làng xóm quê hương, chúng tôi đã quần tụ bao bọc lấy nhau. Có điều gì rất mãnh liệt hút chúng tôi thành một khối. Lúc bấy giờ nghĩ không ra. Mãi sau này chúng tôi mới rõ: Chính những người cùng cảnh nghèo khổ, cùng cảnh bị áp bức phải đoàn kết, đồng tâm với nhau mới mong giành giật được miếng cơm, manh áo.
Chúng tôi phải chờ tàu ở Hạ Lý. Mấy trăm con người trú tại mấy dãy lán lợp mái tôn, rộng như cái chuồng voi, hôi thối vô cùng. Anh em Thái Bình ở một khu, anh em Hà Nam, Ninh Bình mỗi tỉnh một khu. Tôi ở cùng với anh em Hà Nam. Họ mến tôi vì tôi rất thẳng, lại hay chăm sóc những người yếu mệt. Hơn nữa tôi lại biết chữ, thường viết hộ anh em thư từ gửi về cho người thân vài dòng tâm sự trước lúc lên đường.
Chính vì vậy trong cuộc đấu tranh của bà con Nam Định, Thái Bình tôi kể sau đây, anh em phu mộ Hà Nam đã nghe tôi, hết lòng ủng hộ, mặc dù họ hầu như không dính líu tới việc đó. Bấy giờ cái vụ này ầm ĩ trên đất Cảng…
Lúc rời nhà, đến Hạ Lý, chúng tôi ký hợp đồng với bọn cai thầu khoán. Bọn này là tay chân của chủ. Hợp đồng có hai khoản dính dấp với cuộc đấu tranh ở Hy Lạp. Một là cai thầu khoán phải lo cơm nước cho phu mộ. Mỗi người mỗi bữa được hưởng 2 xu. Nếu làm đúng, cơm nước còn khá. Đằng này chủ thầu chỉ chi có 1 xu 2. Gạo là thứ đã mủn, cơm xới ra hôi mùi cứt gián, vón từng cục. Cá khô thì mục có cả ròi, nhà bếp tống vào bao nhiêu muối, ngửi vẫn khắm lằm lặm. Việc này bị phát hiện, bấy nhiêu anh em của mấy tỉnh đều nhao nhao phẫn nộ.
Lại còn một khoản nữa không ghi vào hợp đồng. Điều này do chủ mộ đặt ra để dụ dỗ dân nghèo đi phu. Chúng bảo chủ thầu chi cho mỗi đầu phu 10 đồng để trang trải vài món vặt trước khi đi. Nhưng bọn chủ thầu ăn chặn ngay một phần. Với anh em Hà Nam, trong đó có tôi, chúng đã nói chi 10 đồng từ trước nên chúng tôi được nhận đủ. Còn anh em Nam Định, Thái Bình, chúng chỉ phát cho mỗi người 6 đồng. Bà con ta ở nông thôn tính tình chất phác xưa nay, làm sao biết được những trò đê tiện ấy. Mà ngay những điều ký kết trong hợp đồng, họ cũng chẳng được đọc. Có người còn bị chúng lừa ký hợp đồng bằng cách thế này: Chúng bảo phải chụp hình để trình Nhà nước. Lỡ sau này có xảy ra chuyện gì, chính phủ còn bênh vực. Thế rồi chúng đưa người đi phu ra hiệu chụp ảnh. Chụp nghiêng, chụp thẳng đủ kiểu. Sau đó chúng đưa giấy bảo người ấy điểm chỉ để sau nhận ảnh. Sau đó mới biết giấy đó chính là một bản hợp đồng in sẵn. Cái người bị lừa không bao giờ biết là mình đã điểm chỉ vào giấy bán đứt tính mạng và tự do cho chủ tư bản.
Những điều ký kết trong hợp đồng đã không biết thì tất nhiên những khoản "dặn miệng", họ càng chẳng được ai bảo. Bọn thầu khoán "tuỳ cơ ứng biến", xén của người này mấy đồng, của người khác mấy đồng.
Vì vậy, số anh em Nam Định, Thái Bình nhận mỗi người 6 đồng thì yên trí là chỉ được có bấy nhiêu. Nhưng cái kim giấu trong áo lâu ngày cũng phải lòi ra. Đến Hạ Lý, người nọ hỏi người kia và anh em Nam Định, Thái Bình ngã ngửa người khi biết mình bị bọn thầu khoán ăn chặn mất 4 đồng.
Anh em bà con Hà Nam đem chuyện ăn chặn tiền bàn với tôi. Tôi đáp:
- Chúng ta cùng một cảnh. Người ta đòi thì mình phải theo đỡ vào một tay.
Nhân chuyện cơm nước tồi tệ đang làm mọi người bực tức, thế là cuộc đấu tranh nổ ra. Nói là đấu tranh, nhưng kỳ thực không có ban lãnh đạo, cũng không có tổ chức. Chỉ là cuộc đấu tranh tự phát của những người gặp bước đường cùng, không còn biết sợ là gì. Vai trò của tôi cũng chỉ là người đứng ra, xướng lên vấn đề. Đối tượng đấu tranh của chúng tôi là Phan Tất Tạo. Tên này là thầu khoán, nhận với chủ mộ đứng ra chiêu dụ người Bắc Kỳ bán cho Tây. Tạo rất ít khi đến khu Hạ Lý. Ngay các bữa cơm của chúng tôi cũng không bao giờ có mặt hắn.Thường hắn chỉ để bọn tay chân tiếp xúc với phu mộ.
Trưa hôm ấy như mọi bữa, cơm của chúng tôi mỗi người chỉ có một bát, thức ăn là một miếng cá khô bằng ba ngón tay, vẫn thứ cá khô mặn chát, thịt cá thâm xì, mùi khắm lặm. Thùng nước chè bánh chỉ đủ cho mỗi người một bát. Thế là cuộc đấu tranh nổ ra. Chúng tôi bỏ không ăn. Mấy trăm người hò la đòi Phan Tất Tạo đến. Bọn tay chân của Tạo sợ mất vía. Vừa thấy chúng tôi reo hò bãi thực, bọn này chuồn thẳng.
Tiếng hò la của bọn chúng tôi náo động khu Hạ Lý. Lúc ấy, chúng tôi cũng không ngờ cuộc đấu tranh nổ đúng vào thời cơ thuận lợi. Vì bọn thực dân đang cần nhiều nơi tập trung mộ phu. Trong lúc còn ở ngay đất Bắc, gần quê hương, việc bỏ ra về không đi rất dễ xảy ra hàng loạt. Vì vậy Phan Tất Tạo phải đến ngay gặp chúng tôi. Đầu tiên, y tìm cách xoa dịu, hẹn lần sẽ chu tất cơm nước. Nhưng chúng tôi nhao nhao phản đối, đòi Tạo phải làm đúng lời hứa và các điều quy định trong hợp đồng. Anh em nói: "Chúng tôi bán quê, bán mạng có 10 đồng bạc, bây giờ không trả đủ, chúng tôi không đi".
Phan Tất Tạo thấy anh em chúng tôi làm găng, cử chỉ lời nói rất quyết liệt. Y biết không xuôi đành phải nhận lời. Ngay bữa trưa hôm ấy, y làm thêm cơm nước chu tất. Còn số tiền ăn chặn của anh em Thái Bình, Nam Định thì vì ê mặt nên mãi đến tối, y mới cho tay chân cầm đến gọi tên từng người, trao trả tận tay.
Thế là cuộc đấu tranh đầu tiên đã thắng lợi. Qua lần này, tôi càng rõ người nông dân lúc thường miệng ai tai nấy, nhưng khi tập hợp lại với nhau thì rất đồng tâm. Cuộc đấu tranh vừa kết thúc, trong lúc tạm trú ở Hải Phòng, tôi được gặp lại anh Tống Văn Trân. Anh Trân nghe chuyện chúng tôi thắng lợi thì rất mừng. Anh khen và dặn: "Thế là đúng đấy! Cứ như vậy mà làm nhé!". Lời dặn của anh luôn luôn ghi sâu trong lòng tôi. Sau này, chúng tôi luôn luôn ở thế tấn công kẻ địch theo lời dặn quý báu ấy.
Thế rồi chiếc tàu chở chúng tôi đi, đã cặp bến Hải Phòng. Chiếc Com-măng-đăng Đô-ri-ê[7] là một tàu chở hàng thường cặp bến Hải Phòng, ăn quặng sắt Thái Nguyên đem về Pháp. Lần này, ngoài số quặng, còn một món hàng "người".
Lên tàu, anh em phu mộ được chia từng khu theo quê quán hàng tỉnh. Hà Nam một khu, Nam Định, Thái Bình mỗi tỉnh một khu. Chủ tàu quẳng cho mỗi người một chiếc chiếu trải ngay xuống sàn tàu làm nơi ăn ngủ.
Tinh thần anh em, sau lần đấu tranh thắng lợi, bây giờ lên cao, càng đồng lòng với nhau. Một số nhỏ gồm hào lý thua bạc, mất chức, bỏ nhà đi phu, từ trước vẫn lừng khừng, nay cũng bị cuốn theo chúng tôi. Một số anh em Hà Nam cùng lứa tuổi 18 rất phục cái tính dám làm, dám chịu của tôi. Họ lôi kéo thêm một số thanh niên Nam Định, Thái Bình. Sự gần gũi thân mật ấy làm dịu được nỗi lòng tha phương cầu thực của anh em.
Rồi hoàn cảnh bắt buộc chúng tôi phải nổ ra một cuộc đấu tranh mới. Tàu Đô-ri-ê do một thiếu tá Pháp làm cấp-ten[8]. Thuỷ thủ cũng toàn là người Pháp. Bếp tàu cho chúng tôi ăn đói. Cơm nước cũng tồi tệ như hồi ở Hạ Lý. Anh em chúng tôi có kinh nghiệm đấu tranh trong vụ Phan Tất Tạo, đã nhao nhao phản đối. Anh em tìm đến hỏi tôi. Tôi bàn bạc với mọi người. Cuối cùng, tất cả thống nhất ý kiến phải đấu tranh.
Tôi nhận sẽ đứng ra nói chuyện với chủ tàu. Lúc đó, trên tàu có một số anh em đỗ xéc-ti-phi-ca[9] (tương đương với tốt nghiệp cấp I), họ nói tiếng Pháp tàm tạm. Tôi họp anh em lại được khoảng chín, mười người. Tôi nghĩ cần có người thay thế nếu tình hình găng và bọn chủ tàu bắt tôi. Hoàn cảnh ấy buộc tôi phải tìm thêm vây cánh.
Đến trưa, chúng tôi bãi thực, yêu cầu cho gọi chủ tàu đến. Một lát sau, viên thiếu tá cấp-ten bước vào khoang. Tôi đứng ra thay mặt anh em, dùng tiếng Pháp nói với y:
- Theo hợp đồng, chúng tôi được ăn no, cơm có thịt, có nước chè nóng để uống. Thế mà nhà bếp cho chúng tôi ăn đói, nước cũng chả đủ. Yêu cầu ông làm đúng hợp đồng!
Chủ tàu giân tái mặt. Y cãi xoá:
- Cho các anh ăn no rồi các anh say sóng, mửa hết ra sàn tàu thì sao?
Tôi không nghe, vặn lại:
- Ông nói không đúng. Ăn no là quyền của chúng tôi được hưởng. Còn ăn no rồi có người mửa, cũng có người không. Cứ phải cho chúng tôi ăn no.
Chủ tàu đuối lý không tranh luận nữa. Nó nổi khùng, trở mặt bắt luôn tôi và dọa ném xuống biển. Tôi không sợ cái trò dọa dẫm ấy, vẫn giữ vững ý kiến đã nêu. Nó nhốt tôi vào cầu tiêu và bắt mọi người cứ ăn. Không ngờ tinh thần anh em rất cương quyết. Chủ tàu ra sức doạ dẫm, còn anh em một lòng sống chết có nhau, cương quyết không ăn. Anh em thuỷ thủ Pháp rất phục. Họ lén ném cho phu mộ hàng gói bánh mì, pho-mát. Họ nháy mắt, hất tay ra hiệu khuyến khích anh em cứ làm tiếp. Đến chiều, chủ tàu phải nhượng bộ cho cơm nước tử tế. Bữa ấy có cả thịt bò. Còn tôi, chủ tàu phải thả ra. Anh em phu mộ sung sướng, niềm nở đón tôi về.
Thế là từ một số thanh niên, đám người quy về một mối với tôi càng đông hơn. Bấy giờ tôi mới 18 tuổi, vẻ người dễ thương, tính tình chất phác, cương trực, dễ gây cảm tình với mọi người. Anh em tin cậy "cậu" Phu[10] hết mực, chuyện gì cũng mang đến hỏi.
Còn anh em thuỷ thủ Pháp cũng rất mến tôi. Ngay bữa đấu tranh thắng lợi, anh em đưa tôi về phòng thuỷ thủ, đem rượu, bánh, thịt bò ra thết đãi. Chúng tôi chuyện trò với nhau rất vui vẻ. Sau đấy còn hát cho nhau nghe những bài dân ca Pháp, Nam.
Sau lần đấu tranh này, tôi mặc nhiên trở thành đại biểu của anh em phu mộ. Có điều gì anh em lại tìm hỏi han, trình bày. Ngay cả bọn chủ cũng vậy, nếu định giao việc gì cho anh em phu mộ, chủ tàu cũng tìm đến tôi. Nhưng sự dễ chịu tương đối chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi mấy ngày cuối cùng trên tàu Đô-ri-ê. Đến Khánh Hội (Sài Gòn), sự đàn áp khốc liệt của bọn chủ đồn điền cao su đã thể hiện rõ rệt.
Tàu Đô-ri-ê vừa cập bến Sài Gòn, bọn xu-vây-dăng[11] cả Tây lẫn ta đã xông lên. Chúng dùng gậy gõ vào đầu phu mộ mà đếm như đếm súc vật. Anh em chúng tôi thì đồ đạc lỉnh kỉnh, bị rách, tay nải, thúng mủng... Có người còn bìu ríu cả vợ con. Rất nhếch nhác. Rồi cả đám hàng mấy trăm con người bị bọn xu-vây-dăng lùa lên bộ như lùa một đàn bò.
Trên bến cảng, bọn lính mã-tà đông như rươi. Chúng chia nhau đứng hai bên đường, cách mười thước một thằng, tay lăm lăm roi cặc bò, dùi cui. Đểu nhất là những thằng Tây lai. Chúng cứ chửi luôn mồm: "Đ. mẹ chúng mày. Đồ mọi rợ!". Vừa chửi chúng vừa vụt roi túi bụi lên đầu lên cổ chúng tôi. Những thằng khác đểu cũng chẳng kém. Chúng giục liên hồi: "Đi tới, đi tới!". Rồi cũng vút roi túi bụi . Anh em tức sôi sục nhưng vì chưa chuẩn bị đối phó nên đành nín thinh đi về khu tập trung.
Đến nơi, vừa hạ hòm xiểng xuống đất là anh em đến gặp tôi. Chúng tôi bàn nhau cử ra một đại diện để giao dịch với bọn xu-vây-dăng. Lần này tôi không ra mặt, nhiệm vụ đại diện được trao cho anh Trương Lạp. Anh Lạp vốn quê ở Cát Lại, Bình Lục. Anh cao lớn, khoẻ mạnh, mặt lúc nào cũng đỏ như Quan Công. Tính anh mạnh bạo, gặp khó khăn đến mấy cũng không lùi, gặp nguy hiểm thế nào cũng không chờn, nhưng phải cái tính nóng như lửa.
Chúng tôi la hét đòi gặp chủ mộ để phản đối việc đánh đập. Bọn xu-vây-dăng và mã-tà kéo đến. Một tên hỏi chúng tôi:
- Làm sao chúng mày la hét như vậy?
Anh Lạp nổi nóng vặc luôn:
- Các thầy vừa chửi vừa đánh chúng tôi từ dưới tàu lên tới đây. Nếu bây giờ chúng tôi chửi các thầy một câu xem các thầy nghĩ thế nào?
Bọn xu-vây-dăng và mã-tà lập tức xáp lại đánh chúng tôi túi bụi. Anh Trương Lạp bị chúng quật dùi cui vào đầu, nằm dài trên mặt đất, máu mê bê bết. Tôi hô anh em. Tất cả hò la rầm rầm, đập phá lung tung. Bọn xu-vây-dăng và mã-tà hoảng sợ, chạy đi gọi mật thám Tây. Một lát sau, chúng kéo đến. Cầm đầu là một tên Pháp nói tiếng ta rất thạo. Nó hỏi:
- Thế nào? Các con làm gì thế?
Vừa tức vì chúng coi mình như súc vật, vừa tức vì thằng mật thám Pháp gọi mình bằng con, tôi nóng máu, bước ra trả lời:
- Chúng "ông" ký công-tờ-ra[12] vào đây làm. Công-tờ-ra giao hẹn không được đánh. Nó lại đánh chúng "ông". Thế là sai pháp luật. Nếu cứ đánh nữa, chúng "ông" sẽ đưa ra toà!
Bốn bề anh em nhao nhao chửi rủa. Thấy găng quá, tên mật thám đấu dịu:
- Các con cứ giữ trật tự rồi đâu có đó.
Nó sợ tiếng la hét lọt ra ngoài, mặt khác cũng muốn giao xong phu cho Sở cao su để hết trách nhiệm. Nó đồng ý đổi hai thằng xu-vây-dăng lai đánh giữ nhất đi nơi khác. Còn anh Lạp chúng cho cáng đi nhà thương buộc thuốc. Sau này, anh Lạp bị ốm chết ở Phú Riềng năm 1928, nếu không, chắc anh cũng trở thành một chiến sỹ tốt.
Sau lần xô xát này, chúng tôi mới để ý tới nơi ăn chốn ở mà bọn xu-vây-dăng gọi là sở tân-đáo[13]. Kỳ thực tân-đáo là một chi nhánh của Sở mật thám Nam Kỳ. Nó giống hệt như một trại tập trung, bồn bề rào dây thép gai có lính mã-tà và mật thám canh gác ngày đêm. Bên trong là mấy dãy ba-rác[14] lợp tôn. Mỗi ba-rác có hai dãy sàn lim hai bên. Bên trong ba-rác tối om vì không hề có một cửa sổ nào trừ cửa lớn ra vào.
Ở đấy, bọn mật thám sục sang luôn. Những ai chưa ký công-tờ-ra đều bị buộc phải làm cho đầy đủ. Công-tờ-ra có vài điều kiện nghe rất mị dân nhưng sau này chúng không thi hành, còn lại là những điều khoản rất khắc nghiệt. Theo công-tờ-ra, công nhân cao su được lương công nhật, có nhà ở, có trạm y xá chữa bệnh không mất tiền, lương thực được mua theo giá rẻ của đồn điền. Khi hết hạn ba năm, họ được trở về quê quán, chủ đồn điền phải chịu tiền phí tổn. Nhưng trong thực tế, tất cả những điều trên đều không được thi hành hoặc không được thi hành đầy đủ.
Nói đến chữa bệnh không phải trả tiền, tôi chỉ nêu ra một thí dụ: Hễ con bệnh lên trạm xá của đồn điền xin thuốc, chữa bệnh, bọn y tá của đồn điền sẽ cho một cái đơn "hiệu nghiệm" là bắt nhịn ăn vài ngày để bệnh khỏi "tiến triển". Thế là người bệnh lần sau dù nặng mấy cũng đố có dám đi khám. Hoặc có nhiều điều kiện chúng tôi phải đấu tranh gian khổ mới buộc được chúng thi hành, như khoản nước nóng uống trong giờ làm việc.
Những điều khoản khắc nghiệt thì khá nhiều. Có khoản ghi: Ai không tuân lệnh trên, làm ồn ào, gây sự hoặc vắng mặt không xin phép sẽ bị phạt tiền; vi phạm lần thứ hai sẽ phạt tù từ 5 đến 10 năm biệt xứ, nếu tội đó bị gán cái tên "phá rối trị an".
Một khoản khác lại ghi: Không giao việc quá sức cho đàn bà. Người nào đẻ được nghỉ một tháng, sau khi đẻ hai tháng chỉ giao việc nhẹ. Nhưng thực tế, người phụ nữ còn nhục nhã quá phu nam. Những cảnh khổ đó tôi sẽ kể lại sau.
Ở sở tân-đáo Khánh Hội chừng một tuần thì mọi giấy má đã làm xong. Trong thời gian chờ đợi, anh em chúng tôi càng xiết chặt mối thân tình với nhau. Khi nói chuyện với nhau toàn những điều thiết thực. Chẳng hạn: "Chúng ta đi đây xa làng, xa nhà cửa, không bà con thân thiết. Vậy thì phải biết che chở cho nhau". Hoặc: "Chúng nó súng ống, dùi cui tua tủa, ta phải đồng tâm, hiệp lực mới sống nổi được". Hay: "Cố gắng đùm bọc lấy nhau, đợi hết ba năm công-tờ-ra mà về với vợ với con, với làng với nước". Nhưng thật ra thì số người về được cũng sẽ rất ít...
Một hôm, xe hơi vận tải của các sở cao su ùn ùn kéo đến tân-đáo. Bấy giờ ở Nam Kỳ có nhiều công ty lớn thuộc ngành cao su. Ví dụ như công ty "Đất đỏ"[15]. Sở dĩ có tên này vì ở Nam Kỳ có hai loại đất, một loại đỏ và một loại xám, cả hai đều thích hợp cho việc trồng cao su. Ngoài công ty "Đất đỏ" còn có các công ty "Mi-mô", "Mi-sơ-lanh", "Cây nhiệt đới"[16]… Mỗi công ty lập một số đồn điền riêng của mình. Đất đai Nam Kỳ bị chúng chia nhau chiếm đoạt. Có công ty xin khai khẩn một lần tới 50.000 héc-ta đất. Vì vậy, nhân công rất thiếu. Mỗi chuyến phu mộ tới phải chia cho các công ty khác nhau để điều hoà quyền lợi giữa các công ty.
Lần này cũng vậy, số anh em chúng tôi cũng bị chúng chia đi các đồn điền cao su ở Sa Cam, Sa Cát, Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Bò Dốt và Phú Riềng. Chúng chia anh em đi theo tỉnh. Vì vậy, một trăm năm mươi anh em Hà Nam, trong đó có tôi, bị đưa về Phú Riềng. Đám phu Phú Riềng di chuyển cuối cùng.
Chẳng nói cũng có thể hiểu rõ nỗi lòng của chúng tôi khi bị chia năm, sẻ bảy. Tình cảm đã xiết chặt sau những ngày sểnh nhà, đói khát, bạc đãi, roi vọt và đấu tranh thắng lợi. Chúng tôi đinh ninh rằng sẽ sống chết có nhau trong ba năm. Ấy thế mà đành phải chia tay nhau. Thử hỏi lòng dạ chúng tôi đau xót đến mức nào!
Riêng đối với tôi, anh em Thái Bình, Nam Định rất quyến luyến. Họ bịn rịn từ biệt. Xếp đồ đạc lên xe rồi, có người còn nói với tôi:
- Giá được "cậu" đi với chúng tôi thì hay quá!
Được anh em quý mến tin cậy, tôi bùi ngùi cảm động. Tôi chẳng biết nói gì hơn ngoài lời dặn: "Thôi các bác đi. Mong rằng các bác đồng tâm với nhau, sau ba năm lại về quê cũ. Có khi được về cùng một chuyến tàu cũng nên".
Quả thật lúc đó chúng tôi không ngờ rằng số người thoát chết sẽ rất ít. Chúng tôi cũng không hình dung nổi cảnh sống ở các đồn điền cao su ra sao. Nhưng kể cũng may là có người còn sống sót để thuật lại những cảnh rùng rợn ở các địa ngục trần gian ấy...
Các đoàn lần lượt rời sở tân-đáo. Chúng tôi, một trăm năm mươi anh em Hà Nam lên đường vào Nam, hết hạn không được trở về quê, nhiều anh còn bị đế quốc Pháp chở tàu đem đày ra Côn Lôn. Nhưng đó là chuyện của ba năm sau…


ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Sau hai ngày ôtô lắc kinh hồn, một trăm năm mươi anh em Hà Nam đặt chân lên đất Phú Riềng. Bước xuống xe, ai nấy kinh hoảng nhìn quanh cái nơi chúng tôi sắp phải sống cho qua ba năm.
Phú Riềng là một địa điểm nằm ở miền cực tây cao nguyên Di Linh. Độ cao của nó so với mặt biển khoảng hai, ba trăm mét, có rải rác những cồn gò cao sáu bảy trăm mét. Phú Riềng nằm giữa lòng một vùng rừng già nhiệt đới, phía bắc là vùng biên giới với Cao Miên. Phía tây là vùng rừng Lộc Ninh kéo dài tới Cam-pu-chia. Rừng ở đây còn ở trạng thái tự nhiên, chưa hề có bàn tay con người khai thác. Chất đất rất tốt, màu đỏ như son. Đó là “nham huyền vũ” từ núi lửa phun ra, lâu ngày tan nhuyễn thành thứ mùn mầu mỡ. Vì vậy, tre nứa mọc ken xít vào nhau. Cây gỗ thì rất lớn, phải bảy tám người ôm mới xuể. Những gốc dầu, gốc sao cao vút, tán xoè rộng chen cành vào nhau. Ánh nắng mặt trời giữa trưa cũng không xuyên thấu.
Những người dân đồng bằng chúng tôi bơ vơ, rách rưới đứng trước cảnh ấy bị ngợp hoàn toàn. Vì thế, ai nấy càng thêm lo lắng, càng thêm nhớ nhà.
Đồn điền Phú Riềng thuộc tài sản của công ty cao su Mi-sơ-lanh. Anh em chúng tôi là toán công nhân đầu tiên tới để khai phá. Đồn điền khá rộng, bề dài ngót hai chục cây số, bề ngang trên mười cây. Cứ khoảng một cây số chúng cho lập một làng. Chúng tôi là toán công nhân đầu tiên nên ở làng số 1. Ở mỗi làng, đồn điền xây dựng mấy dãy ba-rác. Mỗi ba-rác là chỗ sinh sống cho năm mươi công nhân. Bên trong mỗi ba-rác, chúng dùng ván gỗ ngăn thành mười lán. Mỗi lán vuông vức mỗi bề 5 mét. Chúng tôi chia nhau năm người một lán. Ngủ trên sàn gỗ dài, nấu cơm ngay trong lán. Trong lán chật chội đến nỗi chỉ đặt nổi bàn chân mỗi khi ra vào. Điều kiện vệ sinh lại thấp kém. Mưa thì lội, nắng thì chói chang. Khí hậu vùng này nóng nực, ẩm thấp mà lán không trổ cửa sổ, mái tôn lợp thấp lè tè cho nên ở trong lán, người ta có cảm giác như sống trong hoả lò quanh năm ngày tháng.
Về tổ chức, mỗi làng là một đội sản xuất, đồng thời là một đơn vị hành chính. Đến giờ tầm đi làm, chúng tôi họp thành từng kíp khoảng chục người có một cai người Việt trông coi. Cai ta thì chẳng hơn chúng tôi bao nhiêu, lương chênh tí chút nhưng được cất riêng mỗi cai một gian lán. Trên cấp cai là bọn xu-vây-dăng, mỗi thằng coi vài ba kíp. Bọn này thường là Tây lai. Bọn xu-vây-dăng dưới quyền mấy tên xu-vây-dăng sếp. Mấy tên này chịu trách nhiệm điều khiển mọi công việc của Phú Riềng. Bọn chúng được hưởng mọi đặc quyền đặc lợi. Từ xu-vây-dăng trở lên là cuộc sống đã khác hẳn. Mỗi thằng xu-vây-dăng được hai gian rộng rãi, cao ráo, đồ đạc đầy đủ, từ bàn ghế giường tủ tới nồi niêu xanh chảo. Xu-vây-dăng sếp có nhà riêng làm ở từng làng. Nhà nào cũng thoáng đãng, lắp cửa kính, cửa chớp đàng hoàng. Bên trong nhà chia làm bốn phòng ngăn nắp, sạch sẽ: Hai phòng ngủ, một phòng ăn, một phòng tiếp khách. Đồ đạc bằng gỗ tốt, đóng kiểu đẹp, đánh véc-ni bóng nhoáng. Anh em công nhân rất ít khi được đặt chân vào nhà của xu-vây-dăng sếp, trừ khi nó gọi lên để tra hỏi chuyện gì. Bọn xu-vây-dăng sếp lại có quyền lấy mấy công nhân lên nhà làm bếp cho nó ăn, dọn dẹp quét tước, lau chùi bàn ghế hoặc giặt giũ cho nó.
Trên cùng là chủ nhất. Tên này như vua con ở đồn điền. Nó có một ngôi nhà diêm dúa làm theo kiểu "boong-ga-lô"[17]. Xe hơi riêng có vài chiếc. Chiếc này chạy trong đồn điền, chiếc kia để đi công việc, chiếc nọ thì để vợ chồng con cái đưa nhau đi rong chơi.
Trong boong-ga-lô lúc nào cũng có hàng chục người phục dịch hầu hạ, thôi thì từ thư ký, lái xe, bồi, bếp, đến chị hầu, cai vườn. Nhà chủ nhất thâm nghiêm như cung cấm vua chúa. Anh em công nhân không ai dám bén mảng đến gần. Ở đấy ba năm mà tôi chỉ được đặt chân vào nhà của chủ nhất có một lần, lúc anh em Phú Riềng nổ ra cuộc đấu tranh đầu năm 1930, chiếm được đồn điền trong mấy ngày.
Cả bọn, từ chủ nhất đến xu-vây-dăng, đều được tuyển lựa từ quân đội Pháp đưa vào. Tôi sẽ điểm mặt, chỉ tên những đứa "nổi tiếng" ở phần sau. Nói chung, bọn xu-vây-dăng đều là những tên đao phủ, những con quỷ sứ hung ác của địa ngục trần gian Phú Riềng. Đứa nào chửi công nhân giỏi sẽ mau lên lương, đứa nào đánh công nhân thật ác cũng mau lên lương. Hình phạt thông thường nhất là bắt trật quần, đánh vào mông đít, hoặc đánh vào bàn chân đến mất gan bàn chân. Đánh xong còn bị giam trong nhà tối, chân bị cùm, bỏ đói hàng hai ba ngày. Có người bị bỏ quên trong đó đến chết khô.
Nữ công nhân nom sạch mắt một chút càng tội nghiệp. Hết xu-vây-dăng sếp đến xu-vây-dăng thường, rồi cai Tây, cai ta gọi lên. Chỉ qua vài tuần, thân tàn tạ chẳng khác nào chiếc lá héo. Nếu có chồng, còn liên lụy cả đến chồng. Hễ chống cự cưỡng lại là chúng đánh người chồng đến chết. Khi giày vò đã chán chê, thả cho về thì chị em đã ra ma.
Sau khi đến Phú Riềng được một ngày, bọn chủ đã phát đồ nghề làm ăn cho chúng tôi. Mỗi người một nón lá, một áo tơi; mỗi người phải giữ và bảo quản một con rựa, một cái cuốc và một lưỡi búa nguyệt. Đồ nghề toàn loại đúc bằng thép tốt, đưa từ Pháp sang. Chúng tôi phải mài dao, búa cho thật sáng, thật bén. Bọn "xu"[18] khám luôn, hễ thấy cùn hoặc chớm gỉ là đòn ngay. Ngoài các thứ đó ra, mỗi người còn được phát thêm một mảnh gỗ đánh số, đeo vào cổ như số tù.
Bấy giờ ở Phú Riềng còn là rừng hoang, chưa có gốc cao su nào. Chúng tôi phải phá hoang từng khoảnh rừng lớn để sửa soạn trồng cây cao su. Công việc khai phá buổi đầu rất nặng nhọc, nguy hiểm, mà hoàn toàn không có bảo trợ[19].
Trước tiên công nhân phải hạ cây, phát bụi, phơi nắng cho khô rồi nổi lửa đốt. Việc hạ cây rất nguy hiểm, những cây sao, cây dầu hàng bảy tám người ôm, tán vươn trên cao chẳng biết xòe cành đến đâu. Mỗi khi gốc cây gãy, cây đổ rầm xuống, tiếng cành vụt rào rào nghe ghê người. Sau mỗi lần nghe cây đổ, công nhân phải nín thở lắng tai xem có tiếng ai kêu la không. Tai nạn luôn xảy ra. Nhẹ thì vài người bị cành nhỏ quật gãy chân, sái tay hoặc toạc mặt. Có hôm tới hai, ba người bị cây đè chết. Càng về tối, cây hạ càng nhiều, người mệt rồi, không còn nhanh nhẹn như lúc sáng sớm tinh mơ nên kém tỉnh táo đề phòng. Vì thế đây là lúc tai nạn xảy ra nhiều nhất.
Đi hạ cây chẳng mấy tuần là không có người bị cây đè chết. Buổi sáng đi làm nơm nớp chẳng biết đến chiều có còn sống sót mà về! Công việc đã nguy hiểm mà làm lụng lại nặng nhọc. Mỗi sớm, chúng tôi phải thức giấc từ bốn giờ sáng để nấu cơm ăn, năm giờ rưỡi đã phải tề tựu xếp hàng trong sân làng để cho bọn xu-vây-dăng điểm danh. Lúc điểm danh, mấy thằng "xu" lại dùng ba-toong gõ vào đầu công nhân côm cốp mà đếm. Cái trò ấy chẳng thằng nào không làm, chúng dường như thích thú nữa là khác. Hễ ai đến chậm vài phút là chúng phạt một đồng mà lương chỉ có bốn hào một ngày công.
Sau đó bọn "xu" dẫn chúng tôi ra săng-chi-ê[20] từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều. Bọn tôi phải làm quần quật dưới ánh nắng chói chang như thiêu như đốt; trừ mười lăm phút buổi trưa nghỉ ăn cơm, uống nước, đi ỉa đi đái.
Bọn "xu" đốc thúc chúng tôi làm không ngơi tay. Nào đốn cây, nào làm cỏ, đào lỗ trồng cao su. Mãi đến sáu giờ chiều trở về làng, người nào cũng mỏi nhừ. Thế mà về đến làng lại phải vội vã vác ống nứa ngộ ra suối lấy nước và kiếm dăm ba cây củi nỏ về nhóm lửa nấu cơm ăn. Dăm con khá khô nướng lên khét lẹt, đăng đắng. Bữa nào háo người thì cố kiếm nắm lá văn khôi, lá bứa nhăng nhít ngoài rừng nấu ít canh suông cho đỡ xót ruột. Ăn chập ăn chuội. Xong một ngày. Người không còn tí chút hăng hái nào nữa, chỉ còn cách chui vào lán ngủ vùi để sáng mai nghe hồi còi của "xu" là lại vùng trở dậy, cơm nước, bắt đầu một ngày lam lũ mới. Sức khỏe ngày hôm nay chẳng bao giờ bằng ngày hôm qua. Mỗi ngày một mòn mỏi - má hóp, răng nhô, mắt trũng quầng thâm, xương đòn gánh đội vai áo… Nom người nào người ấy chừng như sắp chết đến nơi.
Khí hậu vùng này độc, muỗi rừng rất nhiều, con nào con nấy to tướng, màu vàng hoe, cánh trông óng ánh. Chúng bay vo vo trên không rồi sà xuống đốt thấu quần áo. Đấy là loại muỗi sốt rét, lúc đậu đuôi cong vắt chổng ngược lên trời. Đã vậy nước uống lại không đun sôi, ai khát cứ tự mình tìm khe mà uống. Vì vậy bệnh sốt rét lan tràn rất nhanh. Chỉ một tháng sau khi tới Phú Riềng, chẳng còn ai chưa lên cơn sốt. Ngoài muỗi còn mòng. Những con mòng tròn như hạt thầu dầu, màu đỏ tía. Hễ cắn vào đâu, vết mòng loét thành sâu quảng đến đấy, chữa không khỏi thì què.
Nhưng muỗi, mòng Phú Riềng không làm chúng tôi kinh sợ bằng mối rừng. Ở vùng cao nguyên đất đỏ này, mối rừng nhiều hơn kiến. Cứ khoảng bốn giờ chiều, chúng kéo đi cả đàn, mối thợ nhỏ xíu đi giữa, mối lính đầu to gấp đôi thân, hai nanh cong như càng cua đi hai bên để canh giữ. Hễ có động, đàn mối dừng cả lại, mối lính quay đầu ra chung quanh, ngỏng cổ, giơ nanh ra rồi dập mạnh xuống lá khô rào rào. Giống mối này có con to bằng đốt ngón tay, hai nanh cong vắt, vừa nhọn, vừa sắc. Đi săng-chi-ê giẫm phải mối rừng, hai nanh nó ngoạm bật máu ra. Nó đã ngoạm được vào thịt rồi thì hai mũi nanh cong vút của mối khóa chặt vào nhau, ta có dứt chỉ được phần thân còn cái đầu của nó đứt lại, nanh móc sâu trong thịt. Trong anh em chúng tôi lúc đầu có người chưa biết đến giống ấy. Một lần có công nhân cùng quê Hà Nam với tôi, làm việc mệt quá lên cơn sốt, không thể đứng lên để về, phải nằm lại săng-chi-ê. Đêm ấy, mối lên xơi đến sáng, người bất hạnh chỉ còn bộ xương trắng hếu. Những đêm chúng tôi đi làm về muộn, nghe tiếng mối ăn rào rào, ai cũng sởn gai ốc!
Làm việc nặng nhọc quá mức trong một vùng khí hậu xấu, trong khi đó chúng tôi lại phải ăn uống quá ư kham khổ. Theo công-tờ-ra đã ký thì chúng tôi được phát gạo không phải trả tiền và còn được mua thức ăn rẻ của đồn điền. Nhưng bây giờ, chúng tôi phải nhận hai mươi bốn cân gạo trừ vào lương hàng tháng. Không ai được đong gạo hoặc mua thức ăn tự ý ở bên ngoài. Gạo đồn điền là thứ gạo lứt vón hòn, giá lại cao hơn giá gạo tốt ở bên ngoài. Cứ đầu tháng, đồn điền phát cho chúng tôi tích kê gạo để lĩnh dần. Thức ăn chỉ có một món “truyền thống” là cá mắm hạng xấu, nhưng chúng tính giá cao như vàng. Hễ ai ho he một câu, bọn "xu" ra roi như mưa bấc.
Vì vậy ngoài bệnh sốt rét, chứng kiết lỵ trở thành kinh niên trong công nhân cao su. Người ngợm cứ gầy rộc đi trông thấy, thân thể rạc dần rạc dần rồi chết khô chết héo, làm phân bón cho mấy gốc cao su của bọn chủ tư bản.
Cũng có người liều lĩnh lên xin thuốc trạm xá xây dựng ở mỗi làng. Bọn y tá Tây cho công nhân uống thuốc IPK. Ai nấy về mửa đến mật xanh, mật vàng, hoặc chúng cho đơn nhịn ăn vài ngày - nói là để chứng kiết lỵ "đỡ tiến triển".
Nếu là nữ công nhân thì còn bị bắt phải ngủ với chúng. Bệnh dù khỏi, dù còn, người nữ công nhân cũng bị y tá Tây giày vò kỳ chán mới thả cho về đi làm.
Ngày chủ nhật, chúng tôi chỉ được nghỉ trên danh nghĩa. Hôm đó phải làm vệ sinh quanh khu lán, kể cả lán của cai và nhà riêng của xu-vây-dăng. Tính ra mỗi người mất năm giờ lao động không lương. Thành thử quanh năm không được một ngày nghỉ thật sự.
Về lương bổng thì mấy đồng tiền kiếm được cũng bị bòn rút nốt. Ở mỗi làng, bọn vợ con xu-vây-dăng mở hàng tạp hoá bán giá rất đắt. Ai không mua những thứ cần thiết như kim chỉ, bì thư ở đây thì cũng chẳng đi nổi đâu mà mua. Những cửa hàng này cũng là sòng xóc đĩa. Sòng chỉ mở những đêm đầu kỳ lương. Có anh tham mê cay cú bán lương non hàng tháng để cố gỡ. Gỡ ra chẳng được lại đâm gỡ vào. Có anh bán hết quần áo, chỉ còn chiếc xà lỏn. Đêm đến vo tròn người mà ngủ mặc cho muỗi mòng xâu xé.
Lúc bấy giờ, ở một số xí nghiệp Sài Gòn, bọn chủ tư bản cho lập một thứ mà anh em công nhân gọi là “chuồng nhốt trẻ”. Đó thường là một căn phòng chật hẹp, tối om thiếu không khí, thiếu ánh sáng. Chúng bắt công nhân đem con đến nhốt vào đó rồi vào làm trong xí nghiệp. Trẻ bị đói, đánh nhau loạn bậy, cứt đái bê bết từ đầu đến chân. Nhưng ở Phú Riềng, công ty Mi-sơ-lanh cũng không cho lập "chuồng nhốt trẻ" vì một lẽ đơn giản: Do điều kiện vệ sinh, y tế, ăn ở quá ư tồi tệ nên trẻ em ở Phú Riềng chỉ có sinh ra mà không sao nuôi được. Suốt ba năm tôi ở Phú Riềng là ba năm không hề được nghe tiếng trẻ bi bô.
Cuộc sống khổ cực quá. Vì thế anh em chúng tôi thường hát câu ca dao nói về cảnh ngộ mình như thế này:
Lỡ lầm vào đất cao su
Chẳng tù thì cũng như tù chung thân
Chắc bọn Tây cũng biết Phú Riềng là một địa ngục trần gian. Ai đến cũng không chịu nổi. Họ sẽ trốn đi hoặc sẽ cưỡng lại chúng, vì vậy ngay địa đầu đồn điền có lập bốt lính khố xanh do sĩ quan Pháp chỉ huy. Bọn lính tuần đêm tuần ngày. Hễ bắt gặp một công nhân nào ở ngoài địa phận đồn điền là lập tức bắt giải về cho bọn xu-vây-dăng.
Tổ chức như thế, chúng chưa đủ yên dạ. Bọn đế quốc còn âm mưu khơi sâu và gây chia rẽ dân tộc. Vùng rừng Phú Riềng chỉ có đồng bào người Thượng ở. Do sự kìm hãm của phong kiến, đế quốc, đồng bào ở đây trình độ rất lạc hậu, nghèo nàn. Đàn ông quấn sơ manh khố, đàn bà thêm được mảnh vải che thân. Hàng ngày họ đeo gùi đi rừng kiếm quả, kiếm củi, ngày mùa thì cuốc xới vài mảnh đất trồng lúa nương. Lúc thường họ mang lao, mang nỏ vào rừng săn con cầy, con cáo, đến lúc lúa chín gặt về rồi là xoay ra nghỉ ngơi uống rượu, ca hát chơi bời ở nhà rông. Vì vậy, muối cũng thiếu mà vải cũng thiếu.
Lợi dụng sự thiếu thốn, lạc hậu đó, bọn đế quốc dọa dẫm dụ dỗ bà con theo chúng. Thoạt đầu, chúng đánh vào đầu óc mê tín của bà con bằng cách làm ra lửa nhân tạo. Có gì đâu, chỉ cần dùng péc-măng-ga-nát và gơ-ly-xê-rin rỏ vào bông là có lửa ngay. Bà con Thượng lại tưởng chúng có phép nên một số người đâm sợ. Chúng dụ bà con: "Đứa nào bắt được phu trốn đem nộp "ông", thì "ông" sẽ thưởng muối, thưởng tiền. Nếu thả phu, "ông" sẽ đốt nhà, đốt rẫy. "Ông" có phép, không ai giấu được "ông" cái gì đâu!".
Đồng bào có một số sợ và bị lừa bịp nên làm theo lời chúng. Trong năm 1927, nhiều công nhân trốn thoát tay bọn "xu" và lính khố xanh đồn Phú Riềng mà không thoát nổi tay một số người Thượng bị lầm lạc.
Nhưng chuyện lừa bịp vẫn là chuyện lừa bịp. Sau này, chúng tôi đã thuyết phục được đồng bào, và một khi đã hiểu ra, đồng bào còn giúp đỡ công nhân trốn thoát tay địch. Chúng tôi kết nghĩa anh em với đồng bào, uống rượu ăn thề coi nhau như ruột thịt. Tôi học lỏm được nghề thuốc ở bệnh xá Phú Riềng, thấy đồng bào ốm thì chữa cho; nhiều người khỏi bệnh nên bà con rất tin tưởng, cảm ơn. Dần dần bà con quý mến, có gì cho nấy, nào gà nào trứng. Bà con nghe chúng tôi giảng giải cũng hiểu dần. Chúng tôi nói chuyện đánh Tây, bà con có người chưa hiểu bèn đáp:
- Không đánh được "ông" đâu. "Ông" có phép đấy.
Tôi hỏi phép gì? Bà con bảo "ông" nói cháy là có lửa bốc lên ngay. Tôi bèn dùng đúng mẹo vặt cũ của thằng Tây. Bà con thấy thế vừa cười vừa reo:
- Ô, cũng giỏi như "ông" rồi. Trời mà cho thì cũng đánh được "ông" đấy.
Thế rồi Phú Riềng ngày một mở rộng. Rừng cao su non lấn dần rừng già, lấn cả nương ngô, bãi lúa của đồng bào Thượng, xua mãi họ vào sâu trong ngàn. Vì thế đồng bào càng hiểu lời chúng tôi. Họ than thở với tôi:
- Anh em ta là một nhà thì thương nhau. Còn "ông" thì không phải anh em một nhà. "Ông" ác lắm. Đất của "mọi"[21] "ông" cứ lấy mãi, "mọi" sống thế nào được?
Từ đó, đồng bào Thượng chẳng những giúp đỡ chúng tôi tận tình mà còn đồng lòng với chúng tôi đánh Tây. Đến khi kháng chiến bùng nổ, nơi này trở thành một căn cứ du kích đánh Tây. Nhiều thanh niên Thượng vùng Phú Riềng gia nhập bộ đội, lập được công lớn. Ngay bây giờ[22], Phú Riềng cũng là một căn cứ vững chắc của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Thấy rõ nếu nơi nào cũng vận động được bà con người Thượng như ở Phú Riềng thì sẽ có đất đứng tốt nên tháng 1 năm 1929, tôi sang tận Sở cao su Dầu Tiếng giúp anh em bên đó cảm thông giữa công nhân Kinh và đồng bào Thượng. Sau này bên ấy tình hình cũng ổn, đôi bên trở nên thân thiết ruột thịt như ở Phú Riềng. Họ cũng giúp đỡ nhau, đồng lòng đánh Tây. Nhưng đó là chuyện tương lai.
Còn lúc bấy giờ Phú Riềng nằm giữa mấy vòng tuần tra, canh gác nghiêm mật. Công nhân thì quá cực đến nỗi có người ra rừng mượn sải dây treo cổ lên cành cây cho thoát nợ. Có người thì tìm cách trốn - trốn lẻ cá chân, trốn tập thể vài ba người, chục người.
Một lần, tôi được mục kích vụ bảy anh em trốn bị lính bắt được, trói cả xâu dẫn về cho chủ. Thằng chủ hạ lệnh cho lính mang giày xăng-đá vào rồi bắt người đi trốn nằm xuống đất cho lính giận giày đinh lên lồng ngực. Đứng ngoài, nghe xương gẫy kêu rau ráu. Giận giày xong, chúng còn đánh tiếp một trận gậy nữa rồi bỏ vào nhà tối cùm lại. Trong nhà tối vẫn để một cái cùm chín lỗ. Nó bắt tréo chân anh em, tra vào lỗ cùm. Xong xuôi, chúng thản nhiên đi săng-chi-ê coi công nhân làm, quên đứt câu chuyện vừa xảy ra. Một tuần sau, nhân có chuyện phạt cùm một công nhân khác, chúng mở cửa nhà tối ra thì bảy người bữa nọ đều đã chết cứng, chân còn tra tréo trong lỗ cùm...
Phú Riềng ngày một mở rộng. Công nhân mới mộ đến ngày càng thêm nhiều. Làng công nhân đã lập đến làng số 9. Đồn điền có ga-ra ôtô, có máy phát điện, máy lọc nước ở từng làng dành riêng cho chủ và xu-vây-dăng Tây. Nhưng hằng tháng có tới ngót trăm người công nhân ghi tên vào sổ khai tử.
Những cây cao su non lấy từ vườn ươm về trồng thành hàng lối, vuông vắn, thẳng tắp. Lá cao su xanh tốt mơn mởn, nom thật đẹp mắt mà cũng thật ghê rợn vì mỗi hàng cao su tính ra bón ít nhất là xác của một công nhân.
Trong số những anh em sống ở Phú Riềng hồi đó đến nay tôi chỉ biết thêm đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng là còn sống sót. Chắc chắn rằng số anh em ta bỏ xác ở Phú Riềng kể đến hàng nghìn để làm phân bón gốc cao su cho bọn tư bản. Chúng tôi thường ngậm ngùi hát câu ca dao này:
Cao su đi dễ, khó về,
Trai thì bỏ xác, gái thì ra ma
Bây giờ nghĩ lại, tôi hiểu sâu sắc rằng càng gặp đọa đày áp bức thì người vô sản nghèo khổ càng gắn bó đồng tâm vơí nhau. Người vô sản càng bị áp bức, càng có tinh thần đấu tranh. Khổ như thế, bị đọa đày như thế, lúc nào cũng nơm nớp sống nay chết mai nên họ chẳng còn sợ một điều gì. Chỉ cần có người xướng lên là cả trăm cả ngàn người hưởng ứng.
Bọn chủ tư bản là lũ mặt người bụng quỷ, dùng đủ mọi thủ đoạn hòng khuất phục chúng tôi. Còn chúng tôi, những người công nhân cao su Phú Riềng, đã xiết chặt mối đồng tâm, cương quyết chống lại chúng.


NHỮNG TRẬN XÔ XÁT ĐẦU TIÊN
(1927 - 1928)
Tính từ ngày đầu đặt chân lên đất Phú Riềng đến nay đã ngót bốn chục năm trường, thế mà bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in tâm trạng lúc đó. Bốn bề rừng già hoang vắng, chim kêu vượn hót lạnh lùng, chốn chốn nơi nơi đều là cỏ dại, bụi gai. Từ trên ôtô nhảy xuống, đoàn anh em Hà Nam chỉ còn khoảng một trăm năm mươi người. Rời Hải Phòng ra đi, chúng tôi đông đúc biết bao. Chính sự đông đúc ấy làm dịu nỗi niềm riêng trong lòng những người xa nhà đi tha phương cầu thực. Giờ đây, sau lần chia năm sẻ bảy, chúng tôi chỉ còn lại một số cùng quê theo nhau tới cái chốn này - một chốn chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành.
Cảnh vật Phú Riềng đè trĩu nặng lòng tôi? Không phải! Rừng ấy, núi ấy dù hoang vắng vẫn là nước non nhà. Ngay bây giờ nếu đoàn thể điều động tôi về đó, tôi sẽ đi ngay và hoàn thành việc trên giao.
Không! Cảnh thiên nhiên Phú Riềng tuy làm chúng tôi ngỡ ngàng, nhưng không đè nặng trĩu lòng chúng tôi. Cái làm chúng tôi phải giật mình đề phòng chính là những người ra đón. Mấy thằng sếp xu-vây-dăng, quần áo ka-ki, mắt lừ lừ, soi mói, rình mò từng cử chỉ của anh em chúng tôi. Những ánh mắt tịnh không một chút thiện cảm. Nó độc ác, lạnh lẽo như mặt thú dữ đói hau háu nhìn mồi.
Tôi còn nhớ khi chúng tôi đứng chờ để trình giấy tờ ở buy-rô[23], ánh mắt của mấy thằng "xu" lướt qua chúng tôi như lưỡi dao cạo mỏng tang, sắc lẻm. Ngoài ánh mắt ấy là giọng nói, một giọng nói gằn lại, gắt gỏng, thù hằn. Sau nữa, những đôi giày da lộn, đóng đinh đầy đế và những ngọn roi song ngoe nguẩy như rắn ngóc cổ báo hiệu một cách đối xử rất tàn bạo.
Tất cả những cái đó khiến chúng tôi cảm thấy mình đã sa vào chốn địa ngục. Chúng tôi xích lại gần nhau, kín đáo tìm hiểu cảnh và người Phú Riềng. Sự nghi ngại trong lòng chúng tôi cứ lớn mãi lên và dần dần trở thành một lời nguyền "sa vào chốn này thì chỉ có một sống một chết với bọn chúng mà thôi!".
Bây giờ chỉ còn một con đường: Ngót hai trăm anh em đến nước này phải sát lưng vào nhau, bảo vệ lấy nhau, chống cự cho kỳ thoát khỏi nanh vuốt của chúng. Tôi nghĩ như thế và quyết liều mạng với bọn đao phủ ở Phú Riềng một phen. Cũng chẳng lâu la gì, ngay sáng hôm sau, chúng tôi đã phải đấu nhau với bọn chúng một trận quyết liệt.
Bấy giờ là vào tháng 7 năm 1927. Bọn chủ Công ty Mi-sơ-lanh đang áp dụng chính sách roi vọt trắng trợn. Lúc ấy, thằng chủ nhất tên là Tờ-ri-e[24]. Thằng này là quan ba lính bộ thuộc địa. Cũng cần nói thêm: tất cả bọn chủ nhất, chủ nhì cho đến xu-vây-dăng đều được tuyển mộ trong số lính đánh thuê.
Tờ-ri-e cao lớn, khoẻ mạnh, mặt lạnh và dữ như một thằng cai tù. Nó không chửi bao giờ mà chỉ đánh. Chưa bao giờ nó đi đâu mà không mang theo ngọn roi mây to bằng ngón tay cái. Mặc dù là chủ nhất nhưng thằng Tờ-ri-e hay sục sạo ngoài săng-chi-ê. Anh em công nhân thoáng thấy cái bóng cao lòng khòng với ngọn roi mây vác vai của thằng “Tây Coóc” (chúng tôi gọi Tờ-ri-e là “Tây Coóc” vì nghe đâu nó là người đảo Corse ở Pháp) thì ai nấy đều phải đề phòng. Một tay nó đã đánh chết khá nhiều người.
Mấy thằng xu-vây-dăng sếp dưới của Tờ-ri-e noi gương chủ, ác chẳng kém. Chẳng hạn Va-lăng-tanh[25], thằng này cũng là nhà binh, dáng cao lớn, lưu manh hoá. Nó đánh rất cục, toàn nhằm chỗ hiểm mà thoi, mà đá. Một thằng nữa tên là Mông-tây[26], nổi tiếng tàn ác trong số những thằng xu-vây-dăng ở Phú Riềng. Nó đánh từ sáng đến tối gẫy nát hàng bó roi.
Ba thầy trò nhà Tờ-ri-e đều gian ác. Duy có thằng chủ nhì lúc bấy giờ là thằng quan hai già, không vợ con. Nó không đánh đập mà chỉ hiếp. Trẻ không tha, già không thương. Người nó cao, tay dài, nom dáng dấp như con vượn. Lúc lên cơn, nó hiếp nữ công nhân cả ở ngoài rừng, ngoài săng-chi-ê.
Bọn chúng hay đánh đòn phủ đầu những người mới đến. Ngay hôm sau khi chúng tôi vừa đến, sáng sớm bọn cai thổi còi gọi công nhân ra tập hợp ở bãi trống, điểm danh trước khi đi làm. Anh em ra tới nơi đã thấy bọn xu-vây-dăng chờ sẵn, roi lăm lăm trong tay. Bốn chung quanh bãi, bọn lính da đen súng cắm lê tuốt trần canh gác. Thằng Tờ-ri-e đứng giữa. Nó hô anh em xếp hàng. Một thanh niên đau bụng chưa kịp đứng thẳng hàng đã bị Tờ-ri-e xông đến co chân đá giập lá lách. Người bất hạnh nằm giãy đành đạch dưới chân nó. Thản nhiên như không, nó ra hiệu cho mấy thằng dưới quyền. Va-lăng-tanh, Mông-tây sấn đến vút roi túi bụi. Chúng vừa đánh vừa đếm thật to số công nhân.
Đến lượt tôi, tôi giơ hai tay lên che đầu, cãi lại ngay:
- Công-tờ-ra cấm đánh đập, sao lại đánh chúng tôi?
Tôi nghĩ người công nhân vừa bị Tờ-ri-e đá lúc nãy chắc chết mất. Bây giờ mà không nói, nay nó đánh người này chết, mai đến lượt người khác, rồi có thể là mình. Không nói ra, sau này nó cứ đánh mãi. Lúc đó thằng Tờ-ri-e đứng gần đấy. Nghe tôi cãi, nó sững mặt lại, hơi ngạc nhiên. Cả bầy tay chân của nó cũng ngơ ngác dừng tay. Cảnh nhốn nháo hỗn độn dừng lại một phút. Thằng Tờ-ri-e lừ lừ tiến lại gần tôi, tôi cũng chằm chằm nhìn nó. Tờ-ri-e cười gằn rất đểu:
- Công-tờ-ra n…à…o… ? - Giọng nó kéo dài kênh kiệu.
- Công-tờ-ra các ông ký với chúng tôi chứ công-tờ-ra nào. Trong luật có ghi cấm đánh đập, mà bây giờ các ông vẫn đánh. Người ta chết rồi kia kìa!
Tôi chỉ người bị đá nằm trên mặt đất. Tờ-ri-e chẳng buồn ngoái cổ lại. Nó vẫn cười gằn:
- Nếu tao cứ đánh thì chúng mày định làm gì tao?
Tôi vẫn bướng:
- Các ông cứ đánh thì chúng tôi kiện ra toà. Các ông làm trái luật!
Tờ-ri-e hầm hầm nhìn tôi. Bất thình lình nó quật một roi lên đầu tôi thật mạnh, miệng hét:
- Donnez la cadeuille![27]
Lập tức xu Tây, xu ta, tay roi chân giày quây ngay lại đánh tả đánh hữu. Trận mưa đòn lại giáng xuống. Cảnh hỗn độn tăng lên gấp bội. Tôi bị chính thằng Tờ-ri-e và thằng Mông-tây đánh. Thoạt tiên tôi còn đứng, lấy hai tay vòng lên che đầu. Sau nó đạp tôi ngã dúi xuống đất. Tôi cuộn tròn người lại, dùng hai chân che bụng, che ngực. Roi của hai thằng vẫn cứ đánh xuống như mưa.
Trong khi đó, anh em phá chạy. Bọn lính da đen đứng ngoài chĩa súng bắn chỉ thiên. Một số lớn anh em phải quay lại, chạy nhốn nháo trong bãi trống, tay đỡ, mình né ngọn roi, cẳng chân của chúng. Còn một số ít, vài ba anh em liều mạng xông bừa qua vòng vây của lính da đen, chạy thẳng ra rừng. Bọn lính cho mấy thằng đi đuổi. Tiếng chúng la hét ầm ầm, chẳng khác nào thợ săn đuổi thú. Mấy anh chạy trốn không thuộc đường nên cũng không thoát. Nó tóm được, lôi xềnh xệch về, vừa đi vừa đánh.
Lúc đó tôi đã mê man, chẳng biết chúng còn đánh đến khi nào. Tỉnh dậy đã thấy mình nằm trong nhà tối, chân bị cùm tréo nhau. Khắp người chỗ nào cũng đau như dần, đưa tay khẽ lần sờ thấy chỗ nào cũng nhơm nhớp những máu là máu. Thì ra khi tôi ngất đi, thằng Tờ-ri-e sai lính da đen quăng tôi vào đây cùm lại. Nó ra lệnh gác cẩn thận, bỏ đói không cho ăn. Thực ra lúc ấy có ném cơm vào nuốt cũng không trôi. Tôi cứ lúc tỉnh lúc mê, mơ mơ màng màng...
Đêm hôm ấy, một anh công nhân được chúng dùng làm bồi, thương xót tôi, đã lấy trộm chìa khoá, bánh mì và một bát sữa đem đến. Lừa lúc thằng lính da đen ngủ gật, anh lén mở cửa đem vào đổ cho tôi. Việc làm thật nguy hiểm! Nếu thằng Tây mà biết, số phận anh cũng sẽ lao đao với nó, rồi cũng cùm cũng kẹp, đòn đánh, bỏ đói trong nhà tối... Nếu không phải người cùng cảnh nghèo với nhau làm sao anh có thể thương yêu tôi đến mức liều mạng như vậy. Tối ấy, cho tôi ăn xong rồi anh lẩn ra. Từ tối hôm sau, anh lần ra sau nhà tối, tìm chỗ hở đầu tường, đẩy thức ăn vào. Sợ tôi không biết, anh còn thò que chọc chọc vào người tôi để báo hiệu.
Qua ba ngày, Tờ-ri-e mở cửa nhà tối, bước vào. Nó giạng hai chân đứng nhìn tôi. Hai tay nó khuỳnh chống lên mạng sườn, cái roi song lồng dây đeo vào ngón tay trỏ, bỏ thòng lòng bên đùi. Nó ngắm tôi một lát rồi cười khẩy:
- Này, còn “làm đầu" nữa hay thôi?
Tôi lặng thinh không đáp lại nửa lời. Tờ-ri-e gật gà gật gù nhìn những vết thương còn bầm máu của tôi. Nó gọi thằng lính da đen gác nhà tối vào, sai tháo cùm ra. Khi ấy tôi đứng không vững, thằng lính phải xốc nách đưa tôi vào gian bệnh xá ở làng công nhân. Tờ-ri-e cho y tá bôi thuốc vào những vết thương và sai thay quần áo bệnh xá cho tôi rồi quay ra. Trước khi đi, nó còn đe một câu:
- Mày còn “làm đầu” nữa, tao đánh chết bỏ ngoài rừng, nghe chưa?
Tôi tím ruột, lặng thinh.
Trong khi tôi bị giam ở nhà tối và đưa lên bệnh xá thì Tờ-ri-e đã xua anh em ra săng-chi-ê làm việc. Sau trận đòn phủ đầu, bọn xu-vây-dăng càng được Tờ-ri-e đốc thúc đánh riết. Chắc nó nghĩ rằng đã lợi thế thì cứ làm tới nữa đi. Bọn Mông-tây, Va-lăng-tanh càng nện dữ. Anh em bị trận phủ đầu đành co lại cố gắng chịu đựng chờ xem sự thể ra sao.
Thế là trận đầu tuy quyết liệt nhưng phần bại về chúng tôi. Nhưng chúng tôi vẫn chẳng chịu khuất. Tôi nhịn nhục đi làm, lòng bực bội và căm thù. Tối tối, mỗi khi ở săng-chi-ê về, cơm nước xong, gặp lúc rỗi, tôi và anh em lại rì rầm bàn tán với nhau: làm sao "chơi" lại bọn Tây một vố, quyết không để cho nó đánh mãi được. Bàn thì bàn thế chứ "chơi" nó cách nào cũng vẫn chưa tìm ra.
Vào dịp này, các đồn điền cao su khác cũng có những vụ xô xát giữa công nhân và cai Tây. Bọn thực dân không hề bưng tai tảng lờ mãi được. Chúng phải ra nghị định tổ chức Nha Thanh tra lao động toàn Đông-dương, ký ngày 19 tháng 7 năm 1927.
Nha Thanh tra cử Đờ-la-ma[28], một viên chức Pháp, đến tận Phú Riềng xem xét. Y chắc là một tay lọc lõi, đã ở Đông Dương lâu năm nên nói tiếng Việt rất thạo. Lúc đến bệnh xá, gặp tôi đang làm cỏ vê[29] gần đấy, Đờ-la-ma bảo tôi dẫn đi. Bệnh xá lúc ấy có tới ba chục người, già nửa bị thương tích về đòn đánh. Anh Trần Văn Chuyên lưng còn đầy vết sẹo gậy bổ vào lõm sâu trong thịt. Một anh khác ở làng số 3 tên là Vũ Viết Thu bị nặng nhất. Anh bị thằng Mông-tây đánh 50 roi cá đuối hôm trước. Cái giống roi cá đuối sần sùi, đánh vào đâu tan nát thịt da đến đấy. Đờ-la-ma bảo tôi lật áo anh Thu cho nó xem. Các vết thương hãy còn chảy nước vàng, mùi tanh xông nhức óc.
Sau đó tiếp tục kiểm tra. Đờ-la-ma nói với chúng tôi có gì cứ tố cáo với nó vì lão quản lý đồn điền An-pha[30] cùng đi không biết tiếng ta. Anh em cũng giữ ý, gợi khéo những chỗ cần xem xét cho Đờ-la-ma.
Tôi kín đáo chỉ gian nhà tối cho y. Đờ-la-ma đòi vào xem. Đây chính là phòng giam, hôm trước, bọn Tờ-ri-e còn cùm anh Vũ Viết Thu. Sáng nay, nghe tin có nhân viên thanh tra đến, Tờ-ri-e mới thả anh Thu về bệnh xá. Trong phòng giam vẫn còn lại cái cùm chín lỗ. An-pha ngượng quá, chẳng biết nói sao. Tôi máy lão Đờ-la-ma chú ý đến gian bên cạnh. Đờ-la-ma lại đòi vào xem, An-pha phải mở cửa; gian này còn người bị giam. Vừa lúc ấy, thằng Tờ-ri-e ở săng-chi-ê về, cũng vào theo. Đờ-la-ma chỉ người bị cùm cho Tờ-ri-e thấy. Hắn sai mở rộng cửa cho sáng: Đó là một anh công nhân ở làng số 2 đã bị nhốt ở đây đã một tuần, người anh trần như nhộng, chỉ có mảnh khố tải che hạ bộ. Bị giam lâu và bỏ đói, anh xanh như tàu lá, người gầy gò bẩn thỉu, chân tra tréo trong cùm. Đờ-la-ma bắt vực người bị cùm lên xem xét thì thấy trên lưng hãy còn sáu vết roi cá đuối. Đờ-la-ma cho gọi y tá đến. Thằng y tá tên là Phòng, nhà ở phố Tây Nguyên, Biên Hoà, được mệnh danh là "Y ác". Phòng nịnh Tờ-ri-e, khai láo rằng người công nhân này mắc chứng điên phải cùm lại cho khỏi phá phách. Nó nịnh trắng trợn đến nỗi lão An-pha phát ngượng phải xí xóa: "Đây không phải bệnh xá, mang nó đi chỗ khác!", rồi sai mở cùm thả người ra.
Đờ-la-ma kiểm tra suốt một ngày. Nó sục khắp nơi khắp chốn. Nó ra cả săng-chi-ê xa nhất, gặp gì cũng ghi chép. Thật ra muốn kiếm tài liệu thì khó gì, có hàng ngàn chuyện trái luật cần phải ghi lại, ở xó xỉnh nào cũng đầy rẫy.
Tối hôm ấy, bọn chủ đồn điền mời tiệc Đờ-la-ma. Sáng hôm sau, y về Sài Gòn. Bọn tôi cứ chờ mãi xem có gì đổi mới xảy ra hay không nhưng tịnh chẳng thấy chi lạ. Tôi cũng lo Đờ-la-ma báo cho bọn Tờ-ri-e biết là tôi chỉ chỗ cho nó khám, nhưng cũng không thấy Tờ-ri-e tỏ vẻ gì khác thường.
Mãi về sau, tôi mới hiểu mánh khoé của thằng Đờ-la-ma. Thì ra cái nghề thanh tra lao động cũng là nghề kiếm bẫm. Đến đất nào lúc bấy giờ chẳng kiếm ra hàng ngàn chuyện trái luật. Ghi cho nhiều vào sổ rồi mặc cả với bọn chủ. Bọn này chẳng sợ gì tụi thanh tra lao động. Tuy chính quyền là của chúng nó nhưng ỉm được chuyện thì vẫn tốt hơn. Thành thử thanh tra thì kệ thanh tra, mời tiệc nhau chúng vẫn mời. Đến khi ra về, thằng thanh tra nào cũng được bọn chủ lót tay, tiền đút, quà biếu. Thế là yên.
Đối với những người mách bảo cho những chỗ cần xem xét như tôi, Đờ-la-ma cũng giữ kín không cho chủ biết. Chúng cũng muốn làm ăn lâu dài ở đất này và cũng muốn được anh em nơi khác cung cấp tài liệu để có điều kiện mặc cả với bọn chủ. Nếu nó tố cáo tôi, chuyện ấy đồn đi, nơi khác biết được sẽ đề phòng thì nó không dễ dàng gì mà biết được tình hình, hoặc biết được rất ít. Do đó mặc cả với bọn chủ sẽ rất khó. Đó, cái trò thanh tra của bọn Pháp chó má như thế đấy!
Sang đầu tháng 10 năm ấy, tức là ba tháng sau, lại có chuyến công nhân mới từ Bắc Kỳ vào. Bọn chủ Tây lập thêm làng số 2 cho một trăm hai mươi anh em. Cũng như lần trước, Tờ-ri-e cho đánh phủ đầu một trận ngay bữa sáng đi làm đầu tiên. Thằng xu-vây-dăng đánh ác nhất hôm ấy chính là thằng Mông-tây. Anh em căm tức lắm không biết tìm cách gì trị cho nó một mẻ.
Trong số anh em mới có Nguyễn Đình Tư. Anh Tư hồi ở Bắc là tay chơi nổi tiếng. Anh nói với mọi người: "Nó là người, mình cũng là người, làm sao cứ để chúng nó đánh mình mãi? Rình cho kỹ, thịt phăng một thằng là đứa khác mất vía ngay", "Sát nhất nhân, vạn nhân cụ". Anh sang làng số 1 hỏi tôi. Lúc bấy giờ tôi cũng cho là phải. Tư liền về làng số 2 bảo mọi người góp tiền làm lễ ăn thề. Mọi người nghe theo.
Đến kỳ lương anh em góp nhau mỗi người một đồng mua thịt bò, mua rượu, hương, nến. Đến tối một số anh em ở làng số 2 theo anh Tư ra rừng. Họ bày rượu, bày thức ăn, lập bàn thờ ăn thề. Người nào cũng dùng dao cắt đầu ngón tay cho rỏ máu vào chén rượu, rồi thề cùng sống chết với nhau. Thề xong, họ ngả mâm rượu đánh chén say sưa.
Vào lúc này, tôi bị bọn chủ nghi ngờ, chúng bắt tôi lên làm việc dọn dẹp ở bệnh xá. Nhân cơ hội ấy tôi học lỏm chút nghề thuốc và tìm cách cung cấp thuốc men cho anh em. Một buổi sáng, tôi đang phát thuốc ký ninh cho anh em uống phòng sốt rét thì thằng Mông-tây đến. Việc điểm danh bắt đầu. Quen lệ, Mông-tây tay gõ roi song lên đầu từng người, mồm đếm bằng tiếng Pháp. Anh em giả vờ mặc kệ, cứ giơ tay lên che đầu. Thằng Mông-tây đi sâu mãi vào trong hàng. Nó đến gần anh Tư, thình lình anh thét lên: "Anh em ơi! Chém chết nó đi!". Lưỡi búa nguyệt mài bén trong tay anh Tư vung lên bổ xuống. Mông-tây chỉ kịp né cái đầu. Búa bổ thẳng xuống bả vai. Thằng xu-vây-dăng quay người chạy về boong-ga-lô. Nó đang hăng máu nên chạy rất khỏe. Anh Tư khoa búa đuổi theo, miệng hô lớn: "Ráp vô! Ráp vô!". Một số anh em khác giơ cuốc chim, dao rựa đuổi mấy thằng cai chạy tán loạn. Mông-tây không chạy được về tới buồng riêng để lấy súng. Mới tới cầu thang gỗ bên ngoài boong-ga-lô, nó đã bị tới chín lưỡi búa trúng toàn chỗ phạm. Nhát cuối cùng bửa hẳn một nửa mặt.
Bọn cai Tây, bọn lính da đen hoảng sợ, rầm rập kéo đến xả súng bắn ào ào. Anh em phá chạy cả vào rừng. Chúng sục vào rừng, anh em chui lủi trốn.
Sau khi thằng Tờ-ri-e đến, nó huy động thêm lính vây tứ phía rồi mới càn. Nó bắt về được bốn năm chục người, còn bao nhiêu đích tay nó giương súng bắn chết. Những người chết bị vùi xác luôn ngoài rừng, cả những người đang ngắc ngoải cũng bị chôn sống. Xác họ sẽ bón cho những cây cao su căng mủ của bọn tư bản.
Cũng có một số anh em chuồn khỏi vòng vây của lính da đen nhưng cuối cùng cũng không thoát. Bọn lính dõng Mọi chặt đầu họ, cắt tai đem về nộp đồn điền lấy thưởng. Một số khác trúng đạn bị thương, lính da đen cầm súng lôi anh em về bỏ ngoài thềm bệnh xá, nhưng Tờ-ri-e không cho băng bó. Mất máu nhiều, số này về sau cũng chết nốt.
Những người bị bắt ở rừng về đều bị giải ra Biên Hoà giao cho Sở mật thám. Anh em bị chúng tra tấn rất dữ để tìm người cầm đầu. Cuối cùng, chúng dò ra anh Tư. Toà án Biên Hoà xử anh tử hình và hai án tù chung thân cho hai anh công nhân khác cùng dự mưu với anh Tư. Mấy anh em rất khảng khái. Họ nhận việc họ làm và không đổ vấy cho người khác.
Sau vụ giết thằng Mông-tây, muốn trả thù cho tay sai, chủ nhất Tờ-ri-e cho đàn áp công nhân rất dữ. Va-lăng-tanh muốn trả thù cho bạn, càng ra sức đánh chúng tôi. Nó đốc bọn cai ta cũng phải theo nó đánh anh em. Ai không làm theo, nó đánh luôn. Chỉ tính riêng thằng này, số người bị nó đánh chết để trả thù lên tới hàng chục mạng. Ai chết, nó cho vùi xác ngay ở vườn su[31] non. Nó bảo: "Cây tha hồ mà xanh tốt".
Riêng tôi, thằng Tờ-ri-e cũng nghi ngờ. Nó cho gọi tôi lên doạ xem có dính líu gì đến vụ này không. Tôi trả lời: "Không biết. Chỗ tôi ở cách làng số 2 tới ba cây số. Anh em này lại mới ở ngoài Bắc Kỳ vào, không quen thuộc gì tôi”. Bất ngờ Tờ-ri-e chộp lấy tay tôi, xem đầu ngón trỏ nhưng không tìm được dấu cắt tay ăn thề. Không có bằng chứng cụ thể, nó lại phải thả tôi ra.
Qua hai lần thử dùng cách cãi lại, đánh trả đều bị khủng bố dữ, nhất là lần sau nó giết chết khá nhiều người, tinh thần chung của mọi người sụt xuống. Có thể nói đến mức đi lại mà không dám nhìn ngang. Nhưng tình thương yêu, xót xa cho nhau không giảm mà còn tăng lên. Anh em thường đến thăm nom những người ốm nặng, những người bị thương tật. Lâu lâu lại góp tiền cho người ra Biên Hoà biếu những anh em bị phạt giam.
Đến cuối năm lại xảy ra một vụ nữa. Ở làng số 2 có anh Nguyễn Văn Chánh, một cai ta. Tuy làm cai nhưng anh Chánh khá tốt, không hành hạ công nhân. Mỗi khi anh ra săng-chi-ê, anh thường đứng gác cho bọn tôi lãn công. Bọn Tây để ý rình mãi nhưng vẫn không bắt được quả tang.
Vào hồi này chúng chủ trương đánh dấn, ra sức đốc thúc các cai ta làm theo chúng. Một buổi sáng, thằng Va-lăng-tanh ra săng-chi-ê. Nó tỉ mỉ xem từng hốc cây mới đào có dựng vách thành không? Đất có vét hết không? Nó bắt công nhân giơ cuốc lên cho nó xem có giữ sắc bén không? Đúng là nó cố ý kiếm chuyện rồi!
Quả nhiên, nó gọi anh Chánh lại quát tháo:
- Mày trông phu thế à! Lỗ đào nham nhở, cuốc xẻng mẻ hết cả. Đây này, mày xem!
Nó giằng lấy lưỡi cuốc từ tay một anh công nhân đứng gần, giơ lên tận mặt Chánh. Lưỡi cuốc chỉ hơi gợn một chút.
Chánh cãi:
- Ông đi tìm suốt cả đồn điền cũng chẳng được cái cuốc nào lành hơn đâu. Người ta giữ thế này là tốt lắm rồi.
Thằng Va-lăng-tanh chửi tục. Chánh cũng nổi cáu mắng giả. Va-lăng-tanh sừng sộ co chân đá phốc ngay vào mạng mỡ Chánh.. Bị một đá bất ngờ không kịp tránh, anh đổ ngay xuống đất. Thế rồi anh ngất lịm luôn, da mặt tím ngắt, mắt trợn ngược, miệng sùi bọt. Công nhân bỏ việc, xúm lại. Va-lăng-tanh vẫn ngang ngược quát:
- A! Mày giả vờ ăn vạ phỏng? Ông cho mấy cái đá nữa cho biết thân.
Nó đá mấy cái vào người anh Chánh. Anh em uất quá nói:
- Người ta ngất sùi bọt mép còn đánh nữa. Coi không anh ấy chết rồi chưa biết chừng?
- Chết bỏ! Đồ láo!
Va-lăng-tanh chửi tiếp một câu rồi xách roi về. Anh em xúm nhau lại khiêng Chánh sang bệnh xá. Nhưng cái đá trúng chỗ phạm, giập lá lách. Anh Chánh lăn lộn rên rỉ được một lúc thì chết. Anh chết, bỏ lại một vợ và hai đứa con thơ.
Đêm hôm ấy, tôi đi vận động khắp các lán. Tôi nghĩ nếu cứ để nó đánh mãi, người mình chết mòn hết. Mà làm liều như hai lần trước với nó cũng chẳng ăn thua. Lần này đưa việc ra tòa kiện xem sao. Tôi vận động anh em, mọi người đều đồng ý. Tôi vận động chị vợ anh Chánh. Chị đồng ý đứng tên trong đơn. Thế là tôi viết lá đơn đưa chị Chánh điểm chỉ vào. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi phát đơn kiện ra toà Biên Hoà.
Cái pháp luật thằng Tây cũng thật là lạ! Thôi thì đủ thứ xét nghiệm, khám tử thi, hỏi nhân chứng, làm lôi thôi hàng tuần. Xong đợt đó đến đợt hỏi nguyên đơn, bị cáo kéo dài cả tháng. Tiếp theo là khoảng thời gian khá dài để chuẩn bị bản án rồi mới đưa ra tòa xử. Chắc bọn chủ đồn điền có đủ thì giờ lo lót cho thằng Va-lăng-tanh rồi.
Cuối cùng vụ việc được đem xử ở Biên Hoà. Bọn tôi chuẩn bị nhân chứng kỹ lưỡng. Mọi câu khai đều ăn khớp nhau, đúng là thằng Va-lăng-tanh đá chết người. Đến lượt nó, Va-lăng-tanh cũng nhận là có đá. Nó khai:
- Thằng Chánh coi săng-chi-ê không hết bổn phận. Tôi bảo nó không nghe, còn cãi lại. Tôi đá dọa nó có một cái. Ý tôi định đá vào mông nó, chẳng may nó tránh đâm thành trúng mạng mỡ. Tôi cũng không định đá vào đấy.
Sau đó, trạng sư Tây của Công ty Mi-sơ-lanh cãi cho Va-lăng-tanh rất hăng.
Vụ án kéo dài 5 tháng điều tra, ba ngày xử. Cỏ trên mả anh Chánh ở Phú Riềng gặp mùa mưa đã xanh um. Cuối cùng toà Biên Hoà kết luận: Va-lăng-tanh nhỡ chân đá chết người, tội ngộ sát. Phạt 5 đồng bồi thường cho vợ người xấu số.
Năm đồng một mạng người. Giá thật rẻ mà… cũng quá cao! Hàng chục người khác chết trước anh Chánh còn chẳng được đến đồng xu nào thì sao!
Nhưng quả thật, vụ việc đưa ra toà xử công khai mà xử như vậy thì thiên vị quá trắng trợn. Từ đấy bọn tôi có thêm kinh nghiệm cứ phải tự mình coi lấy việc của mình, đừng có tin gì vào toà án của thực dân đế quốc. Thế là thất bại thêm một lần nữa!
Thấm thoát đã trên nửa năm sống ở Phú Riềng. Quanh các làng số 1, số 2, số 3, từng khoảng rừng lớn đã được phát quang. Đất đỏ au phơi nắng nom như son. Đó đây, những cây su non đem từ vườn ươm tới trồng đã nảy ngọn măng tơ xanh mát. Để có cảnh này, biết bao nhiêu anh em đã vắng mặt ngày hôm nay. Họ chết bờ, chết bụi, xương thịt tan nhuyễn vào làn đất đỏ như son ấy.
Đã nửa năm qua, bọn tôi có thêm kinh nghiệm đấu tranh đối phó với bọn chủ tư bản.
Chẳng biết bắt đầu từ ai, một hình thức đấu tranh mới được đưa ra: Chúng tôi bảo nhau lãn công. Bấy giờ anh em cũng không biết đó là một hình thức đấu tranh và cũng không gọi nó là “lãn công”. Anh em nói: "Việc đếch gì mà làm cố cho chúng nó". Anh em cắt cử người canh bọn cai Tây và những thằng cai ta. Hễ chúng sểnh mắt là bọn tôi chỉ làm qua loa. Nhát cuốc giơ lên, bổ xuống nhưng chẳng ai buồn xúc đất lên, đất nằm đâu vẫn yên đó, dao chặt gỗ hàng tiếng đồng hồ vẫn không hạ nổi một cây. Năng suất chung của đồn điền xuống trông thấy. Bọn xu-vây-dăng lồng lộn lên nhưng không sao trông cho xiết. Hễ chúng có mặt chỗ nào, chúng tôi làm đủ việc chỗ đó, nhưng hễ chúng vừa đi khuất, anh em lại bảo nhau chùng tay lại.
Dần dần có thêm kinh nghiệm, bọn tôi còn bảo nhau triệt cây giống. Những cây giống này đem từ vườn ươm tới trồng trong những chiếc rổ nhỏ bằng tre đan rất khéo. Bọn tôi bươi đất trong rổ lên, dùng dao con bấm vào chiếc rễ cái độ non nửa rồi lại trồng xuống hố tử tế. Nước ngấm vào rễ. Một tuần sau, rễ thối nhũn. Cây héo lá dần, có sống cũng kèo cọt, phải nhổ lên trồng thay cây khác. Để bọn Tây khỏi nghi, chúng tôi cứ vài ba cây mới bấm rễ một cây. Quả nhiên, chúng không thể ngờ tới mẹo đó.
Trong lúc ấy, một số anh em không chịu được cảnh sống ở đây, vẫn tiếp tục bỏ trốn; hoặc trốn lẻ tẻ từng đôi một, hoặc rủ nhau dăm bảy người. Trước khi trốn, mỗi người trữ một ít lương thực, một ống diêm. Đợi đến kỳ trả tiền công xong là trốn. Đường xa, rừng dữ, đã có búa nguyệt, dao dựa mài bén để hộ thân. Chẳng mấy tuần là không có đôi ba vụ. Có đám trốn thoát nhưng cũng có đám không. Bọn lĩnh dõng Mọi hễ đón bắt được công nhân cao su trốn là chặt đầu đem về đồn điền nộp lấy thưởng. Nhưng cũng chỉ vài tháng sau, bọn tôi làm quen với đồng bào các làng xung quanh, ăn thề với họ nên sau này, đồng bào vận động bọn dõng có gặp phu trốn cũng lờ đi.
Hai hình thức "lãn công" và "bỏ trốn" buộc bọn chủ Tây phải thay đổi thái độ đối xử.
Chính vào lúc này, năm 1928, thằng Va-sê[32], một tên cố đạo phá giới về thay Tờ-ri-e. Va-sê sau khi bỏ nhà tu có đi lính và được đóng lon quan hai. Y vừa to béo vừa lùn. Mắt đeo kính, lừ lừ như mèo ngủ. Thằng Va-sê vừa đặt chân tới đã tuyên bố cấm xu-vây-dăng đánh đập công nhân. Tất nhiên khi vắng mặt nó, bọn xu-vây-dăng vẫn cứ đánh. Va-sê có cấm cũng chỉ là ngoài mồm.
Về đời sống của công nhân, Va-sê cho đong thứ gạo không hẩm. Cá mú cũng đỡ phải ăn loại thối mục. Nó còn bỏ tiền mua quần áo, mũ mãng cho anh em lập đội chèo, bỏ tiền mua đầu lân cho múa, rồi nó mua cả nhị, cả trống cho lập phường nhạc cổ. Ai không thích hát chèo đã có đội banh.
Về làm ăn, Va-sê tuyên bố cho làm khoán. Nó nói luôn mồm: "Ai xong sớm là về". Nhìn qua cung cách ai cũng tưởng thằng này tốt nhưng thật ra nó rất thâm. Nó biết không làm sao trông xiết được anh em lãn công. Nó hiểu không làm sao ngăn nổi được anh em bỏ trốn. Hơn nữa, một vài tờ báo tiến bộ lúc bấy giờ như tờ "Thần Chung" có đăng một số bài đả động đến cảnh sống đoạ đày ở Phú Riềng, khiến bọn thực dân cũng phải khôn khéo hơn. Và rồi chúng cũng phải nghĩ đến sự lỗ lãi nữa. Nếu cứ kéo dài tình hình thế này, thiệt hại cho chúng cả bạc nghìn. Thằng Va-sê tưởng giao khoán là đắc sách!
Mức khoán của nó rất cao. Ai đào hốc trồng cây phải làm bốn mươi nhăm hốc mà một người đào trung bình một ngày chỉ đào được bốn mươi hốc. Ai trồng cây giống phải làm đủ mười lăm cây một ngày, trong khi một người bình thường trồng chỉ được mười hai cây. Đại loại các mức khoán do Va-sê đưa ra cho các phần việc đều cao lên như thế cả.
Đầu năm 1928, có một sự việc cũng đáng kể ra. Đó là chuyến thanh tra của ông Bùi Bằng Đoàn, đại diện cho Chính phủ Nam triều. Theo pháp luật của bọn Tây và triều đình Khải Định bấy giờ thì người Bắc Kỳ làm lụng ở Nam Kỳ coi như làm ở đất Pháp vì Nam Kỳ là nhượng địa của Pháp. Người Bắc Kỳ làm ở đây vẫn bị triều đình coi như "dân con" của mình và có bổn phận phải chăm nom. Các báo nói quá không thể bưng tai được, triều đình phải cử ông Bùi Bằng Đoàn vào thanh tra. Ông Đoàn là người khảng khái, muốn tìm ra sự thực. Bọn tôi cũng được anh em bồi bếp làm trong nhà boong-ga-lô của chủ nhất cho biết trước vài hôm. Chúng tôi bàn nhau cử người tố cáo. Riêng phần tôi, đã có kinh nghiệm vụ kiện Biên Hoà vừa rồi nên không hy vọng nhiều lắm vào vụ này.
Quả nhiên một hôm, bọn tôi thấy bàn giấy[33] ra lệnh cho nghỉ sớm về dọn dẹp nơi ăn chốn ở. Suốt mấy giờ liền, chúng đốc thúc công nhân làm vệ sinh, kê lại giường phản. Nhà nào dột, chúng phát tôn mới bắt lợp lại. Vách tường quét vôi mới trắng toát. Nom cảnh quan cũng sạch mắt. Sáng hôm sau đến sát giờ đi làm, xu-vây-dăng mới rúc còi tập hợp điểm danh. Những thằng cai Tây ác nhất như hai anh em Lơ-bông[34] cũng chỉ đi tay không, roi song cất đâu mất.
Chúng tôi bảo nhau: Chắc thanh tra sắp đến. Đúng như dự đoán, đến khoảng chín giờ, thằng chủ nhất Va-sê ngồi xe hơi đưa ông Bùi Bằng Đoàn vào đồn điền. Ông Bùi chịu khó sục sạo vào cả bệnh xá, vườn ươm. Ông ra tận săng-chi-ê xem anh em làm lụng. Đâu đâu cũng thấy đời sống có vẻ dễ chịu. Bọn thằng Va-sê rất khôn. Chúng đã chuẩn bị sẵn mấy tên tay chân với danh nghĩa công nhân bám riết ông Bùi. Ông hỏi đâu, chúng trả lời đấy.
Nhưng đến làng số 3, công nhân đã ngầm cử anh Tý thay mặt anh em tố cáo cảnh sống của đồn điền. Thằng Va-sê đứng nghe cứ lặng như người không biết gì. Anh Tý nói đến việc cúp phạt, đánh đập công nhân xảy ra hàng ngày, Va-sê xòe hai tay rồi nhún vai tỏ vẻ ngạc nhiên. Nó phân trần với mọi người chung quanh: "Nào tôi có biết đâu. Tôi đã ra lệnh cấm đánh đập rồi mà?". Nó hỏi người đứng kề bên: "Có đúng không? Tôi đã cấm từ hôm mới đến có phải không?". Nó vừa hỏi vừa cười nhưng cặp mắt ánh lên cái nhìn chế diễu khinh bỉ. Anh Tý điểm số giờ công nhân phải làm trong một ngày: Kể cả thời gian đi ra săng-chi-ê và về lán, ai nấy phải làm việc từ mười một đến mười ba tiếng đồng hồ. Va-sê chêm một câu: "Thế thì nặng nhọc quá đấy!". Một số công nhân khác tiếp lời anh Tý cũng tố cáo thêm về tình hình săn sóc sức khoẻ của đồn điền đối với công nhân, tình hình ăn uống bị bớt xén, tình hình tai nạn lao động xảy ra thường xuyên. Va-sê gật gù nghe, thỉnh thoảng lại điểm một câu: "Cái này để rồi tôi sẽ xem" hoặc "Bây giờ tôi mới biết đấy".
Cuối cùng, y cười nhạt đưa ông Bùi Bằng Đoàn ra xe. Ông Bùi đi rồi, đời sống ở Phú Riềng lập tức trở lại như cũ, thậm chí còn tồi hơn. Mấy thằng xu-vây-dăng Tây càng đánh dữ, chúng lại còn đèo thêm mấy câu chửi: "Mẹ chúng mày, có giỏi cứ tố cáo nữa đi! Chúng ông dạy cho kỳ biết giữ mồm giữ miệng!". Thằng nào không chửi công nhân thì lại chửi triều đình: "Mẹ chúng nó, làm đ. gì được ông! Ông cứ đánh xem làm gì nổi".
Thế là đúng như tôi và một số anh em dự đoán, việc tố cáo cảnh sống Phú Riềng với thanh tra triều đình đã thất bại thảm hại. Triều đình chỉ là đầy tớ của Tây. Một ông Bùi khảng khái đến đâu chăng nữa cũng chẳng làm gì nổi chúng.
Chẳng những không được lợi gì mà hậu quả thật tai hại: Một tuần sau anh Tý đột nhiên mất tích. Qua vài ba ngày thấy chim rừng xao xác một góc, anh em kéo nhau vào tìm thì thấy Tý chết treo cổ trên cành cây, xác đã chương phù, chảy nước. Biết là anh Tý không tự tử mà bị bọn chủ cho tay chân giết, nhưng chúng tôi đành tạm nuốt hờn giận vào bụng, chờ dịp khác.
Thế là mấy lần chống lại chúng đều không xuôi. Cãi lại chúng cũng thua, chém giết được một thằng "xu" ác, nó đưa mấy thằng khác ác không kém đến, kiện ra toà cũng bị thất bại, tố cáo với thanh tra Tây, thanh tra ta cũng thất bại nốt.
Tóm lại những lần đấu tranh của chúng tôi, cuối năm 1927 sang đầu năm 1928, đều không đem lại kết quả, trừ biện pháp lãn công, phá hoại ngầm đã buộc địch phải sửa đổi đôi chút thái độ.
Tuy thế, qua những lần đấu tranh, anh em càng hiểu nhau hơn, tình cảm thắm thiết gắn bó hơn, anh em tin cậy, quý mến nhau hơn. Tất cả những điều đó liên kết công nhân Phú Riềng thành một khối chuẩn bị cho những đợt đấu tranh mới thắng lợi, nếu những đợt sau này có được sự lãnh đạo sáng suốt. Nói khác đi, phong trào Phú Riềng chỉ còn thiếu bộ phận đầu não.
Đến tháng 4 năm 1928, bộ phận đầu não của công nhân Phú Riềng bắt đầu hình thành. Tuy là tự phát, cuộc đấu tranh ban đầu của chúng tôi và của công nhân cao su các đồn điền khác như Sa Cam, Sa Cát v.v... đã có tiếng vang lớn ở Nam Kỳ.

ĐẢNG ĐẾN VỚI PHÚ RIỀNG
Những cuộc đấu tranh của chúng tôi được anh Ngô Gia Tự[35], một trong những người Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, chú ý đến. Anh Tự vào Nam hoạt động từ năm 1927. Sang năm 1928, anh phái Nguyễn Xuân Cừ (tức Vĩnh), một đồng chí của anh, lên Phú Riềng hoạt động trong phong trào công nhân cao su và xây dựng cơ sở cho Thanh niên Cách mạng đồng chí hội.
Anh Cừ vốn người Bắc, học sinh trường Bưởi (bây giờ là Chu Văn An). Tuy xuất thân học sinh, nhưng anh Cừ hiểu muốn làm cách mạng phải đi vào quần chúng công nông, học hỏi họ mới hoàn thành nhiệm vụ. Anh lên Phú Riềng xin làm chân bồi phòng cho thằng xu-vây-dăng Lơ-bông, sếp làng số 3.
Lúc bấy giờ, bọn Tây đang ghét và nghi ngờ tôi, chúng chuyển tôi sang bệnh xá làm chân quét dọn, giặt giũ. Chúng muốn tách tôi ra khỏi số anh em Hà Nam cũ. Từ đấy tôi sống ở bệnh xá. Công việc rất nặng nhọc, phức tạp, nhưng được cái tôi tinh ý. Mới lên làm ở bệnh xá vài tháng, tôi đã biết tiêm bắp, tiêm mạch. Các thứ thuốc thông thường cũng biết sử dụng. Thằng y tá trưởng là thằng Phòng "Y ác". Người nó thâm thấp, da thiết bì, hay cười khẩy nom rất đểu. Phòng đánh bệnh nhân như két. Chị công nhân nào ốm lên nằm bệnh xá cũng bị nó hiếp. Tôi cản nó nhiều lần, nó đánh tôi, tôi cũng đánh trả. Nổi tiếng bướng bỉnh trong đồn điền xưa nay, đời nào tôi chịu lép với nó.
Anh Cừ nghe được chuyện đó và các cuộc đấu tranh trước có tôi dính líu nên rất quý. Anh tìm tôi làm quen. Anh đưa tôi về gian buồng xép của anh để tâm tình. Tính anh điềm đạm, mỗi khi giảng giải điều gì, anh cứ chầm chậm nói dần từng chi tiết một, nói tới đâu tôi hiểu kỹ đến đó.
Anh Cừ làm việc rất thận trọng. Trước khi tuyên truyền ai, anh nghiên cứu, điều tra người ấy kỹ lưỡng. Ít lâu sau, số người được anh tuyên truyền kết nạp vào Thanh niên Cách mạng đồng chí hội lên tới bốn người, gồm có tôi và ba đồng chí khác là Tạ, Hồng, Hoà. Cách làm việc của anh Cừ sau này ảnh hưởng nhiều đến tôi.
Những điều anh Cừ giảng giải cho chúng tôi rất thiết thực. Nó giải đáp đúng chỗ bế tắc lúc bấy giờ. Nó giúp chúng tôi tìm ra nguyên nhân thất bại của những lần đấu tranh trước, đồng thời vạch ra cho mọi người tin tưởng phương pháp đấu tranh mới. Lần đầu tiên, tôi hiểu vấn đề lý luận cách mạng có quan hệ trọng đại đến phong trào cách mạng như thế nào. Tôi càng thấm thía lời dạy của các vị lãnh tụ bậc thầy của chủ nghĩa Mác: "Không có lý luận cách mạng, không có phong trào cách mạng" và "Lý luận một khi đi sâu vào thực tiễn thì trở thành một sức mạnh vật chất". Nhưng những nguyên lý đã được đúc kết thành những câu văn cô đọng như thế, mãi về sau này, khi qua "trường đại học" trong nhà tù cách mạng, tôi mới được học hành thấu đáo. Chứ lúc ấy, tôi chỉ biết là nhờ những điều giảng giải của anh Cừ, tôi như người đang trong đêm tối dò dẫm bước trên một con đường gập ghềnh thì bỗng có được một bó đuốc sáng soi đường mình đi.
Anh Cừ truyền cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm và phương pháp đấu tranh cụ thể. Anh nói cho chúng tôi hiểu thế nào là một cuộc đấu tranh có tổ chức, phải đề ra những khẩu hiệu yêu sách như thế nào, phải lập ban lãnh đạo ra làm sao, phải tổ chức bảo vệ như thế nào, phải tích trữ lương thực đến đâu, v.v... Nghĩa là nhiều vấn đề chúng tôi mới được nghe lần đầu.
Đồng chí Cừ được chúng tôi quý mến và tin cậy hết mực. Anh đến chưa bao lâu, nhưng công nhân cao su đã tụ vào anh như nam châm hút sắt. Tôi còn nhớ, những đêm sau khi ăn cơm xong, chúng tôi họp nhau lại nghe anh Cừ nói chuyện. Địa điểm là phòng xép của anh. Hôm nào mát mẻ, trăng sáng thì kéo nhau ra sân, ngồi bệt xuống đất. Lúc này bọn chủ nhất, chủ nhì, xu-vây-dăng đang rúc trong các toà nhà lịch sự sang trọng, hú hí với vợ con. Vì vậy không đứa nào phát hiện được những hoạt động của chúng tôi. Chúng tôi ngồi nghe mê mải. Anh Cừ hết nói chuyện về kinh nghiệm đấu tranh, anh lại kể cho chúng tôi những chuyện về Liên Xô, về đất nước mà những người công nhân lao động như chúng tôi đã hoàn toàn làm chủ, về phong trào đấu tranh của công nhân thế giới...
Lắm bữa rất khuya nhưng không ai trong chúng tôi chịu ra về. Nếu chẳng may có ai ốm yếu không đến nghe anh Cừ được thì rất tiếc. Dần dần như có sức sống tiếp thêm cho anh em chúng tôi. Một niềm tin vào cuộc đấu tranh sắp tới và đời sống mai sau dấy lên trong lòng chúng tôi.
Anh Cừ một mặt tuyên truyền cho công nhân Phú Riềng, một mặt vẫn liên lạc chặt chẽ với anh Ngô Gia Tự, khi ấy đang ở Chợ Lớn. Người nhận nhiệm vụ giao thông lúc đó tên là Tý, một nữ công nhân quê ở làng Chi Lai, huyện An Lão, Kiến An. Chị Tý dáng người nhỏ nhắn thanh tú. Hai mắt của chị vừa tròn vừa to, ánh mắt đen nháy, rất linh hoạt, biểu lộ lòng can đảm quả quyết. Chị làm giao thông mãi cho tới khi cuộc đấu tranh lớn nổ ra đầu năm 1930. Cũng có một đôi lần, anh Cừ giao việc ra Chợ Lớn cho tôi.
Đối với tôi, anh Cừ có thiện cảm riêng. Một phần vì tính tình tôi thẳng thắn trung thực, một phần vì tôi là người đầu tiên được anh bắt rễ. Ngoài tình đồng chí chúng tôi còn kết nghĩa anh em với nhau. Sau những buổi trao đổi về chế độ hà khắc của bọn chủ tư bản áp dụng trong đồn điền, chúng tôi càng căm thù chúng. Hai anh em nhờ công nhân trong xưởng cơ khí rèn cho hai lưỡi búa nguyệt bằng thép tốt, có khắc chìm trên má hai chữ "Công lý". Hai lưỡi búa mài thật bén tặng lẫn nhau, mỗi người giữ một. Điều đó biểu hiện sự ấu trĩ của tôi nhưng cũng biểu lộ chí hướng của chúng tôi.
Anh Cừ đến Phú Riềng thấm thoắt đã ngót một năm. Quần chúng quy tụ quanh hai chúng tôi ngày một đông. Lúc bấy giờ trong nước, phong trào công nhân đang sôi sục. Trước tình hình đó, giai cấp công nhân yêu cầu bức thiết phải có một chính đảng của mình, một chính đảng có tổ chức chặt chẽ, có hệ thống lãnh đạo từ trên xuống dưới, một chính đảng có đường lối lý luận chính xác để lãnh đạo phong trào đi đến thắng lợi.
Vì vậy, trên cơ sở của các tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội và Tân Việt cách mạng đảng, ba nhóm Cộng sản (Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn) đã kế tiếp nhau ra đời, trước sau vài tháng. Đây là những tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân ta mà sau này, vào ngày mồng 3 tháng 2 năm 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc sẽ hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, (sau đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương), đảng tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc.
Trước khi hợp nhất thành Đảng Cộng sản Đông Dương, các nhóm Cộng sản tích cực hoạt động, gây cơ sở trong quần chúng, tổ chức những chi bộ mới, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động ở khắp nơi, gây nên một cao trào cách mạng mạnh mẽ chưa từng thấy.
Anh Ngô Gia Tự vốn là một trong số những người của tổ chức Thanh niên đã tích cực tiến hành những bước đầu tiên nhằm xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân. Anh Tự đã giao nhiệm vụ cho anh Nguyễn Xuân Cừ lập chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng ở Phú Riềng. Ngay từ đầu năm 1929, anh Cừ đã đưa điều lệ Đảng cho một số anh em công nhân Phú Riềng nghiên cứu. Trong số này có tôi.
Chi bộ Phú Riềng chính thức thành lập vào một đêm tháng 10 năm 1929[36]. Tất cả có sáu anh em. Chúng tôi đưa nhau ra rừng sau làng số 3 làm lễ tuyên bố. Chúng tôi đốt vài cây nến cho sáng, treo một lá cờ búa liềm lên một gốc cây lớn. Lá cờ phủ dọc thân cây. Đêm ấy là một đêm trăng vằng vặc, tiết trời hơi lạnh, vậy mà tôi thấy nóng ran cả người. Anh Cừ vẻ mặt xúc động, thay mặt cấp trên tuyên bố lý do cuộc họp. Ai nấy nắm chặt tay phải, giơ cao khỏi đầu để chào cờ. Chào cờ xong, anh Cừ đọc mấy lời thề. Đã lâu ngày nên tôi không còn nhớ cụ thể lời văn, nhưng tinh thần những lời thề tôi vẫn còn nhớ. Nó gồm những điểm sau:
- Thề trung thành với giai cấp, với Đảng đến chết không thôi.
- Thề giữ bí mật của Đảng đến cùng. Nếu bị địch bắt, dù cho chúng có tra tấn đến chết cũng không cung khai.
- Lăn vào quần chúng, thề sát vai nhau cùng đấu tranh.
- Bỏ tất cả mọi thứ tín ngưỡng khác, tin tưởng có một chủ nghĩa Cộng sản.
- Thề chung sức đấu tranh, trước làm cách mạng giải phóng dân tộc, sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến tới thế giới đại đồng.
Mấy anh em cùng giơ tay lên trời xin thề. Thề xong mọi người bắt tay nhau, gọi nhau là "đồng chí".
Thật khó mà diễn tả được tâm trạng của tôi lúc đó. Thế là giờ đây, tôi đã chính thức ở trong gia đình của những người Cộng sản, những người cách mạng. Những tiếng "đồng chí" lần đầu tiên gọi đến sao mà ấm áp, thân yêu lạ thường. Tôi thấy mình mạnh lên gấp bội. Những khối óc và cánh tay đồng chí từ đây sẽ giúp đỡ, dìu dắt tôi tiến lên. Lòng tôi lâng lâng, nhẹ như chắp cánh, hai mang tai tôi nóng ran và đôi mắt tôi ướt nhoà, nhìn các đồng chí xung quanh không rõ.
Thế là chi bộ Phú Riềng thành lập. Ngoài anh Cừ và tôi, còn bốn đồng chí nữa là Tạ, Hồng, Hoà, Doanh. Anh Cừ làm bí thư, tôi được phân công phụ trách tổ chức thanh niên Xích vệ đội. Đồng chí Tạ phụ trách làng số 2. Anh Tạ người cao lớn, quê ở Hà Nội, tính tình điềm đạm được anh em tin cậy. Đồng chí Hồng, lúc ấy đang làm lái xe trong ga-ra ôtô, phụ trách Nghiệp đoàn. Hồng rất dũng cảm, nhưng tính tình lại ít nói, thuỳ mị như con gái. Trong khi tâm tình với anh em, anh thường ước ao làng Thị Cầu, Bắc Ninh, quê hương anh, cũng có chi bộ Đảng. Đồng chí Doanh thì lãnh đạo làng số 3. Khác với Hồng, anh Doanh dáng dấp cao lớn, công tác chắc chắn, tính tình gan dạ, ăn to nói lớn. Còn anh Hoà cũng làm ở ga-ra ôtô, giúp anh Hồng trong công tác vận động công nhân lái xe và cơ khí.
Những lần chi bộ họp sau thường chọn địa điểm ở phòng xép của anh Cừ hoặc về kho thuốc bệnh xá nơi tôi làm việc. Công việc lúc đó còn luộm thuộm nhưng rất thiết thực. Chi bộ chú ý đến nơi ăn, chốn ở của công nhân, chú ý đến sinh hoạt gia đình từng người để giải quyết ngay cho ổn thoả.
Nhờ công tác giao thông do chị Tý đảm nhiệm tốt nên anh Ngô Gia Tự vẫn thường xuyên liên lạc với chúng tôi. Anh gửi sách báo bí mật vào cho chúng tôi đọc. Báo chí thì có tờ "Thanh niên giải phóng" và tờ Uy-ma-ni-tê[37] - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp. Tờ Uy-ma-ni-tê in bằng chữ Pháp, tôi biết võ vẽ nên đảm nhiệm việc dịch cho anh em đọc những bài chính về tình hình thế giới, tình hình Pháp, những kinh nghiệm và bài học đấu tranh. Chúng tôi học được ở Uy-ma-ni-tê rất nhiều. Những đồng chí Cộng sản Pháp là những người anh em của chúng tôi, các đồng chí cùng chung kẻ thù với chúng tôi - bọn tư sản, thực dân đế quốc Pháp. Báo của các đồng chí đến với chúng tôi thật đúng lúc và thực sự là món ăn tinh thần quý báu, vì lúc ấy đảng viên Phú Riềng lý luận còn kém, kinh nghiệm đấu tranh còn ít.
Chủ trương và đường lối của Đảng ta lúc này phần lớn là do anh Cừ truyền đạt lại. Đối với những nét lớn về đường lối của Đảng mà anh Cừ giải thích, tôi chỉ thắc mắc một điểm: Anh Cừ nói đến vấn đề ruộng đất và dân cày ở nước ta. Anh nhấn mạnh sự cần thiết phải tịch thu, trưng thu cả số ruộng của các đạo giáo. Tôi nghĩ lấy lại xí nghiệp hầm mỏ về cho công nhân, lấy lại ruộng đất của bọn địa chủ về cho dân cày là điều đúng đắn. Nhưng tại sao lại lấy cả đạo điền để chia cho dân? Đạo điền là của Chúa Trời. Gạo thóc sinh lời được dùng để chi phí cho việc lễ lạt bên đạo, có liên quan gì đến cách mạng? Đúng là những điều được nhồi sọ từ những năm trong các trường đạo đã khiến tôi thắc mắc. Tôi có hỏi anh Cừ điều ấy. Anh liền hỏi lại tôi: Trước đây sống trong Chủng viện Hoàng Nguyên như thế nào? Tôi đã trả lời là sống khổ sở. Anh lại hỏi tôi thấy đời sống của dân cày lĩnh canh ruộng nhà chung ra sao? Tôi đáp lại rằng họ còn khổ sở hơn cả chúng tôi. Anh Cừ điềm đạm cười và giảng giải cho tôi rõ thế nào là địa chủ. Anh nhấn mạnh sự cần thiết phải lấy lại số đạo điền đó chia cho dân cày, tất nhiên có để lại một số ruộng cho nhà thờ nhưng tuyệt nhiên không dùng ruộng đó bóc lột người nghèo.
Cách giải thích cụ thể, rành mạch, đơn giản của anh làm tan đi sự thắc mắc trong lòng tôi. Từ đấy tôi toàn tâm toàn ý tin tưởng, không còn chút vướng víu nào trong trí óc.
... Mới được giác ngộ nên anh em trong chi bộ rất hăng. Các tổ chức bí mật của Đảng như: Nghiệp đoàn, Xích vệ đội... được thành lập. Chi bộ giành giật các tổ chức quần chúng với bọn chủ. Nhiều tổ chức hợp pháp, hội tương tế, cứu tế, các đội thể thao, văn nghệ... được thành lập và do chi bộ nắm. Công việc chạy băng băng.
Nhìn chung mọi cuộc đấu tranh đều có chỉ đạo, nhưng cũng có nhiều hành động quá tả, ngay cả bản thân tôi. Lúc bấy giờ, ở bệnh xá có thằng y tá Vai-ăng[38]. Thằng này vốn là lính thuỷ. Nó chẳng biết tí gì về thuốc, ngay đến tiêm cũng không biết làm. Dốt đặc cán mai mà lương lại rất cao. Tính nó cục, hay chửi càn. Trong công việc, nó toàn ngồi chỉ tay năm ngón sai bọn tôi làm. Không vừa ý một chút là nó “xà-lù”, “mẹc”[39] ầm ĩ.
Một lần, nó chửi tôi: "Xô-va-giơ!"[40]. Tôi cáu tiết chửi giả. Vai-ăng sừng sộ xông đến. Thế là chuyện xô xát xảy ra. Tôi giơ tay đỡ cái tát của nó, thuận đòn giáng trả một quả tống vào quai hàm. Vai-ăng ngã ngửa, đổ cả giường bệnh xá. Thế là nó chồm dậy, chạy vào văn phòng lấy súng lục. Tôi bỏ chạy. Vai-ăng bắn chỉ thiên mấy phát nhưng không dám đuổi. Mãi đến chiều tối, tôi mới về.
Lúc đó phong trào ở Phú Riềng đã lên cao. Bọn đế quốc đang cố tìm cách làm dịu đi, nên thằng Vai-ăng không dám làm dữ. Nó chỉ cúp bốn đồng lương của tôi và nói vuốt đuôi một câu: "Quan lớn thương, quan lớn tha bỏ tù mày!". Tôi ừ ào, nghĩ bụng rủa: "Mẹ mày, cứ động đến ông xem!".
Đại khái những hành động như vậy luôn xảy ra. Anh Cừ phát mệt vì phải uốn nắn cho anh em. Thỉnh thoảng anh vẫn về Sài Gòn báo cáo tình hình với anh Ngô Gia Tự. Có một lần, anh Cừ đưa cả tôi về theo. Tôi được gặp anh Tự tại nơi anh ở, trên đường La-gơ-răng-đi-e[41]. Lúc đó là cuối năm 1929, Đông-dương Cộng sản đảng vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc vô sản hoá cán bộ và đảng viên.
Anh Tự làm công nhân khuân vác ở Chợ Lớn vừa để kiếm sống, vừa tạo địa bàn hoạt động. Căn buồng anh ở rất hẹp và chật chội, đồ đạc chỉ có một chiếc giường nát, vài bộ quần áo rách thay đổi. Tuy mới gặp anh ít phút mà đã thấy lòng mình ấm áp lạ lùng. Vẻ bề ngoài của anh không có gì đặc biệt, thậm chí còn hơi xấu. Người thấp lùn, hơi to ngang, mặt anh tròn, mắt nhỏ, nhưng cách nói năng thật giản dị, thân mật vô cùng. Với các đồng chí trẻ như tôi, thái độ hồ hởi của anh Tự làm ai nấy tin yêu ngay. Cách nói chuyện của anh mộc mạc không văn chương nhưng rất thiết thực. Anh nói với tôi:
- Muốn giải phóng cho mình thì phải giải phóng giai cấp trước đã. Vì mình là người của giai cấp.
Hoặc giả anh dặn dò:
- Đấu tranh để giải phóng giai cấp thì phải lăn vào quần chúng vô sản, phải vô sản hoá.
Những lời nói của anh làm cho tôi xúc động. Càng nói chuyện với anh, càng thêm mến anh. Qua lần tiếp xúc với anh, tôi học được ở anh nhiều điều bổ ích. Anh Tự hiểu biết tình hình đấu tranh của công nhân rất cụ thể. Tờ báo bí mật của chúng tôi xuất bản ở Phú Riềng được anh đọc kỹ lưỡng. Đặc biệt anh thích mục đời sống sinh hoạt của công nhân. Ở mục này, chúng tôi đả phá những thói hư tật xấu, như nạn cờ bạc, rượu chè, cướp vợ của nhau… Anh nói:
- Tốt đấy! Công nhân ta phải từ bỏ những thói hư tật xấu ấy đi. Các anh đã biết vạch đường cho quần chúng theo con đường đạo đức mới. Những thói hư tật xấu ấy là tập tục của bọn tư bản. Mình là giai cấp công nhân cách mạng, làm sao lại để nhiễm những cái không tốt ấy được?
Cũng như anh Cừ, anh Tự chú ý uốn nắn những lệch lạc của chúng tôi, truyền thụ những bài học đấu tranh cụ thể cho chúng tôi. Anh kể cho chúng tôi nghe những kinh nghiệm vận động quần chúng và công nhân ở Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng... Những kinh nghiệm ấy hay vô cùng. Sau này, tôi đã đem ra cùng anh em Phú Riềng đấu tranh với giặc.
Anh Tự còn rút ở Phú Riềng và một vài cơ sở ít đồng chí, huấn luyện rồi tung họ đi các đồn điền vận động công nhân. Công việc của anh rất bận, ngày đi làm mệt nhọc, tối về lại gặp gỡ cơ sở, cán bộ các nơi nghe tình hình, cho ý kiến. Ấy thế mà anh vẫn còn thì giờ thăm hỏi bà con láng giềng và được họ quý mến. Quan điểm của quần chúng của anh thật hay, chính điều đó làm cho tôi sửa đổi được nhiều tật xấu và càng yêu kính anh thêm.
Sau này, khi bị đày ra Côn Đảo, tôi được gặp lại anh Tự. Gần nhau lâu càng rõ tính anh, tôi càng tin tưởng quý trọng anh hơn. Ít lâu sau, trong chuyến vượt bể trốn khỏi Côn Đảo, gặp trời bão, anh bị mất tích. Tôi đau buồn ủ ê hàng tháng trời, thương tiếc anh Ngô Gia Tự - người thầy cách mạng của tôi.
Đến cuối năm 1929, anh Cừ bị đế quốc tình nghi. Thằng Dương Hạc Đính phản bội đã khai ra anh, nhưng vì không có bằng chứng cụ thể nên bọn đế quốc không thể bỏ tù anh. Chúng trục xuất anh về Bắc.
Chi bộ Phú Riềng được bàn giao lại cho tôi làm bí thư. Từ đấy, trách nhiệm nặng nề này do tôi gánh vác. Nhiệm vụ thật vinh quang, nhưng tôi không khỏi lo lắng, dù đã trải qua mấy năm trời rèn luyện trong đấu tranh, nhưng kinh nghiệm chưa có được bao nhiêu.
Tuy thế tôi vẫn vững lòng vững dạ hoạt động vì sự liên lạc giữa tôi với anh Ngô Gia Tự không bị gián đoạn do công tác giao thông khéo léo của chị Tý, người nữ công nhân có cặp mắt tròn to, đen nhánh rất thông minh, gan dạ...


TRƯỚC GIỜ BÃO NỔI
Kể từ khi thằng Va-sê đến, bọn chủ tư bản có điều chỉnh chính sách đàn áp bóc lột, nhưng chỉ về hình thức. Chúng thấy rõ rằng, nếu chỉ dùng đánh đập không thôi, chúng không thể nào buộc công nhân sinh lời cho chúng.
Va-sê sử dụng kết hợp giữa đánh đập cúp phạt tàn khốc với mị dân khéo léo. Nó bỏ tiền mua mũ áo cho đội chèo, mua dụng cụ thể thao, mua nhạc cụ, trống phách. Chi bộ Đảng chủ trương nắm lấy thời cơ đó tổ chức những hội tương tế, thể thao, văn nghệ để tập hợp quần chúng, tranh thủ quần chúng về mình.
Anh em lập được ba đội chèo ở làng số 9, số 3 và số 2. Cứ lập xong một hội lại yêu cầu Va-sê chi tiền mua mũ áo, trống phách. Phụ trách chung cả đoàn chèo là anh Quý, một hội viên của Nghiệp đoàn cao su bí mật. Quý là một quần chúng tích cực, hăng hái. Anh có dáng vóc thon nhỏ, mặt trái xoan, cho nên trong các tích chèo anh thường sắm vai nữ như Điêu Thuyền, Tây Thi.
Về các vở chèo, anh em rút ở các truyện cổ Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc. Lúc bấy giờ, mỗi hội chèo có tới bảy, tám vở. Nổi tiếng nhất có "Tam khí Chu Du", "Đào viên kết nghĩa", "Lã Bố hí Điêu Thuyền", "Phạm Lãi - Tây Thi"[42]. Nói chung đều là các vở tự biên tự diễn, chọn ở các đề tài nặng tính chất trung, hiếu, tiết, nghĩa. Chúng tôi chưa dựng được những vở mới có nội dung cách mạng, nhưng các vở kia cũng kích thích lòng yêu nước của anh em khá nhiều.
Cứ mỗi tối thứ bảy, khi tiếng trống chèo nổi lên là công nhân từ các làng chung quanh kéo đến đông đảo. Chính vào những lúc trước khi diễn chèo, Ban chấp hành Nghiệp đoàn đã khéo léo thông báo tình hình trong đồn điền và chỉ dẫn quần chúng hưởng ứng cuộc đấu tranh mới.
Về thể thao, chúng tôi yêu cầu Va-sê cho lập đội bóng đá. Cứ chiều đến, các cầu thủ mang bóng ra bãi tập. Chủ nhật anh em đưa nhau sang các đồn điền chung quanh thi đấu. Người đi theo cũng đông. Như vậy trong lúc cầu thủ giao tranh trên sân bóng thì các hội viên Nghiệp đoàn, đảng viên trong chi bộ tranh thủ liên hệ với cơ sở bí mật của đồn điền bạn để bàn bạc hoặc trao đổi kinh nghiệm, tình hình đôi bên. Chúng tôi còn lợi dụng những lần đội bóng xuống Sài Gòn đấu giao hữu để liên hệ với anh Ngô Gia Tự, chuyển truyền đơn, báo chí bí mật về đồn điền.
Chúng tôi còn lập một đội múa lân. Đội này cứ ngày lễ, ngày Tết là múa rong khắp các làng trong đồn điền. Anh em trong đội lân chọn toàn thanh niên của Xích vệ đội. Họ khoẻ mạnh, chít khăn đỏ, mặc áo đỏ. Bọn tôi rất thích cái màu có ý nghĩa cách mạng ấy. Đội múa lân tối nào cũng tập luyện. Lợi dụng trò múa lân có tiết mục lân giỡn với võ sĩ múa cầu và binh khí gỗ, anh em trong đội lấy gươm gỗ, côn dài tập múa với nhau. Kỳ thực chúng tôi tập võ nghệ suốt tối. "Thầy" dạy võ, dạy côn cho anh em chính là tôi. Sau này đến ngày đấu tranh lớn, Xích vệ đội dùng rất nhiều gậy cũng từ nguyên nhân này.
Chúng tôi còn tổ chức ra những hội tương tế, cứu tế. Khi ốm, đến thăm nom thuốc men cho nhau. Bất hạnh có ai chết thì đưa đi đắp điếm phần mộ cho nhau. Anh em bên lương có hội "Xuân Thu nhị kỳ", theo tập quán cũ cúng ông bà ông vải hoặc hàng năm vào đình vào đám vài lần. Mỗi lần như vậy có kiếm chút rượu, thịt bày biện ăn uống với nhau cho vui. Anh em bên giáo có hội "Ông thánh Giu-se”. Ai chết, hội sẽ xin lễ cho và cầu hồn giúp người bất hạnh. Hội này do tôi phụ trách. Thực ra, sinh hoạt tín ngưỡng của hai hội này cũng rất yếu. Nó chỉ là tổ chức quần chúng hợp pháp nhằm tập hợp đông đảo bà con để đưa họ vào những hình thức đấu tranh cao hơn. Đây là những tổ chức công khai, hợp pháp mà chúng tôi đã khéo léo nắm chắc quyền lãnh đạo, làm cho âm mưu mị dân, ru ngủ quần chúng của Va-sê tan vỡ.
Còn tổ chức bí mật, ngoài bộ phận đầu não là chi bộ, chúng tôi có lập Nghiệp đoàn bí mật và Xích vệ đội. Nghiệp đoàn cao su bí mật do đồng chí Hồng, một đảng viên, trực tiếp làm thư ký. Trong số các anh em tích cực hoạt động có anh Tạ, anh Chương người Ninh Bình, anh Mô người Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Anh Chương sau cũng bị đày ra Côn Đảo và bị chết ở đó vì kiết lỵ. Ban chấp hành của Nghiệp đoàn cứ mỗi tháng họp một lần để nhận định tình hình và đề ra hướng đấu tranh cho tháng sau. Nghiệp đoàn ra được tờ báo hàng tháng lấy tên là "Giải Thoát". Ban biên tập không có, anh Hồng trực tiếp lo chạy bài vở, các đồng chí trong chi bộ và trong Ban chấp hành Nghiệp đoàn viết. Việc in do một quần chúng đảm nhiệm, làm đêm ngoài rừng. Tờ báo in thạch ấy tuy thô sơ nhưng rất thiết thực và sát với tình hình Phú Riềng. Ngay anh Ngô Gia Tự cũng khen và thích tờ báo này. Đại khái báo có các mục như sinh hoạt công nhân, hoạt động Công đoàn...; về chính trị quốc tế thì trích đăng ít dòng của tờ báo Uy-ma-ni-tê; về tin tức đấu tranh trong nước thì đăng vài đoạn của báo Giải Phóng (tờ báo của Đông Dương Cộng sản Đảng lúc bấy giờ).
Tôi còn nhớ khi anh Trần Văn Cung bị bắt, báo "Giải Thoát" có đăng một bài nhân danh Nghiệp đoàn bí mật đòi đế quốc phải thả anh. Anh Cung là một trong bảy người của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, đã lập ra chi bộ đầu tiên của Đông Dương Cộng sản đảng.
Nghiệp đoàn của chúng tôi rất đông hội viên, có thể nói là tuyệt đại đa số công nhân đều có chân trong đó. Nói đúng ra là tổ chức quần chúng giai cấp của Đảng. Mọi sinh hoạt của nó được tuân theo răm rắp. Chính nhờ có tổ chức này mà bộ phận đầu não - chi bộ Phú Riềng tuy chưa tới chục đảng viên nhưng có thể lãnh đạo các cuộc đấu tranh từ nhỏ chí lớn.
Còn Xích vệ đội là tổ chức vũ trang của Đảng. Gọi chính xác tên của nó lúc bấy giờ là Thanh niên làng. Chúng tôi tổ chức một tiểu đội gồm bốn mươi người, có một tiểu đội trưởng chỉ huy. Lúc bấy giờ, tiểu đội trưởng làng số 9 là đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng (hiện nay[43] là Tổng cục phó Tổng cục Lâm Nghiệp).
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng lúc ấy còn rất trẻ, mới 16 tuổi. Cứ nom dáng người tròn trĩnh, thấp bé, trắng trẻo của anh thì không ai ngờ được Mạnh Hồng là tay đấu tranh rất hăng. Mạnh Hồng hoạt động cho Đảng, cho giai cấp hết sức tích cực, sôi nổi. Tôi rất hợp tính với Mạnh Hồng. Đã có đôi lần, tôi về ở hẳn một tháng tại làng số 9 để bàn bạc công việc với Mạnh Hồng. Đêm đến, hai anh em nằm gác chân lên nhau ngủ.
Nhiệm vụ của Thanh niên Xích vệ đội rất cụ thể. Nó chính là lực lượng vũ trang của chi bộ Đảng, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ cuộc đấu tranh. Trong khi đình công, bãi công, Xích vệ đội luôn luôn đi sát để bảo đảm cho đại biểu công nhân đàm phán với chủ. Lúc thường thì Xích vệ đội canh gác xóm làng nhằm chống lại bọn mật thám của bọn chủ tư bản. Những thằng tay sai này hay lởn vởn nghe ngóng, rình mò tại các làng để dò la tin tức. Anh em Xích vệ đội vớ được thằng nào là nện cho bò lê bò càng, đổ riệt cho chúng tội ăn cắp.
Kỷ luật bấy giờ rất nghiêm. Tôi tự nghĩ ra những điều khoản cho anh em đội viên theo. Mỗi đội viên Xích vệ phải thề tuyệt đối trung thành với Đảng, trung thành với Nghiệp đoàn, tuân thủ mọi mệnh lệnh giao phó. Đối với bọn mật thám, bọn cai, chủ thì phải chống đến cùng để bảo vệ cho các đại biểu công nhân, các uỷ viên chấp hành Nghiệp đoàn và các đồng chí trong chi bộ Đảng. Các đội viên phải tuyệt đối phục tùng tiểu đội trưởng và chỉ huy trưởng đội Xích vệ. Ngoài ra, trong những tối hát chèo, những buổi đá banh, Xích vệ đội còn làm nhiệm vụ duy trì trật tự.
Tất cả công tác của anh em đều nửa công khai, nửa bí mật. Đối với bọn chủ, anh em cũng chỉ là công nhân như người khác, nhưng đối với nội bộ, mọi nhiệm vụ trật tự, an ninh, đối phó vũ trang với chủ, chi bộ đều giao cho anh em.
Lợi dụng tổ chức đội lân để tập luyện võ nghệ cho anh em. Lúc đó, tôi chưa biết danh từ "quân sự", chưa nghĩ đến tập súng, lăn lê bò toài như bộ đội ta bây giờ. Chủ yếu là tập múa gậy. Vốn là tay gậy khá ngay từ hồi còn học tại Trường dòng Hoàng Nguyên nên bây giờ tôi dạy lại anh em. Mỗi khi đến ngày lễ, anh em mang đầu lân đi múa, người nào cũng bịt khăn đỏ, mặc áo đỏ, thắt dây lưng bỏ múi, tay cầm gậy nom rất oai.
Vũ khí của đội rất đơn giản. Chủ yếu là dùng gậy và những lưỡi búa nguyệt. Búa này là dụng cụ đốn cây, rèn bằng thép tốt. Anh em mài thật bén, sáng như gương, tưởng chỉ bổ nhẹ một cái là đủ bửa đôi ngay đầu giặc.
Như vậy, kể từ năm 1928, khi anh Cừ đến với chúng tôi, nhất là từ khi chi bộ Phú Riềng được thành lập, tổ chức của công nhân Phú Riềng ngày một chặt chẽ, hình thức đấu tranh xen kẽ giữa hợp pháp với nửa hợp pháp, rất linh hoạt.
Đầu tiên, chúng tôi chủ trương chống cúp phạt và đánh đập. Nếu một ai bị đánh, lập tức anh em đối phó ngay. Tôi còn nhớ vụ anh Cảo bị cai Tây đánh vào đầu bằng cuốc vì anh chưa kịp rẫy hết chỗ cỏ chúng giao. Thế là tất cả anh em bỏ đồ nghề xuống, kéo cả trăm người lên boong-ga-lô chủ nhất để kiện. Chủ giảng hoà, chúng tôi không nghe đã bãi công, đòi phải đuổi thằng cai Tây đi khỏi đồn điền, và đòi phải cam đoan từ nay không đánh đập anh em nữa. Đối với anh Cảo, chúng tôi yêu cầu phải chữa cho anh kỳ khỏi. Những ngày anh còn nằm bệnh xá chưa đi làm, đồn điền vẫn phải trả lương. Chúng tôi đấu tranh cương quyết. Cuối cùng bọn chủ phải nhượng bộ. Đợi cho đến khi chúng đã nhận phải giải quyết yêu sách chúng tôi mới tiếp tục ra săng-chi-ê.
Thắng được một trận, chúng tôi đánh tiếp đòn khác. Lần này, Nghiệp đoàn cử đại biểu công nhân lên yêu cầu chủ nhất phát gạo tốt, thịt không bạc nhạc, cá không mục thối. Anh em viện lý do ăn những thức ăn ấy, công nhân ốm không đi làm được. Trong khi đại biểu đang đàm phán với chủ thì công nhân thay nhau lên khai ốm với y tá. Người đi tháo dạ, kẻ đau bụng… đủ trăm thứ bệnh. Người nghỉ một giờ kẻ nửa tiếng, cộng cả trăm người lại, đồn điền mỗi ngày thiệt hàng mấy chục công. Cuộc đấu tranh phối hợp nhiều mặt rất nhịp nhàng chặt chẽ. Đầu tiên thằng Va-sê còn găng, sau nó tính toán thấy chẳng thắng nổi, nên đành phải giải quyết yêu sách của chúng tôi.
Kể từ đấy, hễ bọn chủ giở mánh khoé bóc lột áp bức nào ra, bọn tôi đối phó lại ngay. Phong trào đấu tranh lên vùn vụt. Khi thì đình công mười lăm phút, nửa giờ, khi thì cử đại biểu lên đấu lý đấu lẽ với chủ. Thằng cai nào ác vẫn giở thói đánh đập, chúng tôi đối phó bằng cách: Một mặt tất cả anh em trong kíp của nó ra sức lãn công, một mặt cử người lên kiện với chủ. Thành thử chẳng những phần việc do nó phụ trách không chạy mà lại còn làm cho thằng chủ bị rầy rà. Cho nên thông thường thằng cai nào dính phải đòn đấu tranh này của chúng tôi đều phải đổi đi nơi khác .
Dần dà chúng tôi đòi phải phát lương cho đàn bà nghỉ đẻ, phát gạo cho sản phụ. Trước kia, ai chửa đẻ không đi làm là không có lương, không được phát gạo, sau Va-sê cho phát hai tháng gạo nhưng vẫn không trả lương, lấy cớ công-tờ-ra đã quy định như vậy. Vì thế bọn tôi vẫn chưa đòi thêm cho phụ sản được hưởng lương.
Lúc ấy đấu tranh ở nhiều mức độ khác nhau. Khi thì chỉ một đội đình công, khi thì một kíp, có khi thì cả đôi ba làng cùng nghỉ việc. Thằng Va-sê quay cuồng tìm cách đối phó. Nó bày trò giao khoán, nó tuyên bố ngọt xớt: "Ai xong sớm cứ việc về mà nghỉ, đi đá banh, hát chèo".
Nghe qua tưởng bở ăn nhưng thực ra mức khoán nó giao rất nặng. Anh em chơi lại bằng cách làm nhẩn nha vừa phải. Nếu đào hốc trồng cây, anh em xếp hàng dài trên săng-chi-ê, vừa đào vừa trông nhau. Ai nấy chờ mọi người đào hết xong mới qua hàng khác làm tiếp. Thành thử hố đào thành một dẫy thẳng băng không ai hơn ai kém. Những công việc khác như trồng cây non, phá hoang cuốc đất cũng vậy. Tất cả đều dựa theo mức việc của một người sức yếu. Không biết làm thế nào, thằng Va-sê đành phải chịu hạ mức khoán. Thế là thắng lợi. Từ đấy anh em làm xong việc trước nửa giờ, một giờ, nghỉ trước về giải quyết việc riêng.
Nói tóm lại, bọn tôi quần cho thằng Va-sê không thở được. Mọi mưu mô, thủ đoạn của thằng cố đạo phá giới giở ra đều thất bại thảm hại. Nhưng phải nói thêm rằng, mặc dù thắng lợi nhiều nhưng không phải đời sống của anh em chúng tôi đã khấm khá. Chỉ kể chi tiết này cũng đủ rõ: Do điều kiện sinh sống ở Phú Riềng, trẻ em sinh ra ở đây đều hữu sinh vô dưỡng. Nữ công nhân không mấy ai đậu thai được đến tháng thứ tư.
Nói như thế đủ biết điều kiện sinh hoạt ăn, ở của công nhân vẫn còn ở mức độ thấp. Dần dần quyền lợi, điều kiện sống mới được cải thiện. Chế độ ăn ở, chữa thuốc tại bệnh xá cũng đỡ khốc liệt hơn. Bọn chủ phải mua thêm thuốc men, phải sắm thêm giường bệnh. Những thằng y tá ác quá bị chúng tôi đấu đến cùng phải bật đi nơi khác. Anh em công nhân làm nặng nhọc phát ốm được tiêm chút thuốc bổ. Chị em phụ nữ thỉnh thoảng còn dám lên bệnh xá khám bệnh. Bọn cai cũng bớt đánh đập, có đánh cũng không dám đánh ghê gớm như trước.
Rồi chúng tôi tiến tới đòi nước nóng uống trong giờ làm việc. Cái khoản nước đối với chúng tôi rất quan trọng. Bấy giờ công nhân đi làm, lúc mệt, khát nước thì chỉ tìm khe lạch để uống. Với điều kiện khí hậu xấu, nhiều muỗi sốt rét, vệ sinh lại quá kém, uống nước lã rất tai hại. Sốt rét, kiết lỵ là chứng bệnh kinh niên ở Phú Riềng. Chúng tôi đòi chủ phải cắt cử mỗi buổi một công nhân đun nước nóng ngoài săng-chi-ê. Chúng tôi viện lý: Uống nước nóng, anh em không ốm; mà không ốm thì anh em đi làm đủ; vừa lợi việc cho đồn điền vừa giữ được sức khoẻ cho công nhân. Cuối cùng, chủ phải nghe. Thế là mỗi buổi mỗi kíp cử một người đun nước sôi cho tất cả uống. Củi ngoài rừng thiếu gì. Ai ốm, ai yếu được cắt vào chân này. Như vậy lại kiếm được một ngày công cho những người đáng ra phải nghỉ việc.
Va-sê một mặt ru ngủ mị dân, một mặt vẫn ra sức đàn áp. Nhưng nó không tự tay đánh đập như thằng Tờ-ri-e. Va-sê toàn sai bọn tay chân, như bọn xu-vây-dăng Đuy-răng-đê[44] và hai anh em thằng Lơ-bông, thực hiện.
Thằng Đuy-răng-đê đánh dữ chẳng kém gì Mông-tây. Nó hiếp cũng không thua gì thằng Bay-a[45]. Có lần nó gọi chị Nguyễn Thị X., quê ở Thái Bình, lên bắt ngủ với nó. Chị không chịu. Nó cười khẩy, sai nọc ra đánh một trận vào mông. Đánh xong nó hỏi đã bằng lòng ngủ với nó chưa. Chị vẫn cương quyết không nghe. Nó liền bắt chị quỳ xuống, dùng roi mây to đánh liền mấy chục chiếc vào gan bàn chân. Đánh chán, nó sai quẳng chị xuống lán công nhân như quẳng chiếc tã rách. Hai gan bàn chân chị tuột hết da thịt, trông thấy cả xương trắng giữa đám thịt bầy nhầy lẫn máu.
Thằng Đuy-răng-đê coi làng số 9 nhưng nó hiếp lung tung sang cả các làng số 2, số 4, số 6. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in cái dáng lom khom của con khỉ đột đang cơn tìm cái giữa rừng su non lúc mặt trời đã tà. Thật đáng tởm!
Thời kỳ này, hai anh em thằng xu-vây-dăng Lơ-bông coi làng số 9. Hai thằng giống nhau như lột cả từ vẻ mặt, dáng người đến tính tình. Anh em Lơ-bông béo tròn như quả bóng, mặt đỏ căng, da bóng nhẫy. Chẳng hiểu chúng nó sống ở Đông Dương bao nhiêu lâu rồi mà tiếng ta nói thạo như bắp rang. Cả ngày chúng nó chửi luôn mồm: “Đù mẹ, đù cha”, văng tục cả những lời bỉ ổi nhất. Thằng anh vừa đánh ở nơi này xong thì thằng em đã vác roi đến. Săng-chi-ê của anh em làng số 9 lúc nào cũng nghe thấy tiếng anh em Lơ-bông chửi quang quác và tiếng công nhân kêu la thảm thiết dưới ngọn roi của chúng.
Trong lúc mấy thằng Đuy-răng-đê và Lơ-bông đánh công nhân như đánh đòn thù thì chủ nhất Va-sê cứ bưng tai như không biết gì. Mỗi lần Va-sê ra rừng coi công nhân làm, bọn kia lại giữ ý “hiền như cừu non”, có cáu cũng chỉ nói giật giọng. Những lúc ấy người lạ qua đây cứ tưởng Phú Riềng dễ thở lắm: công nhân làm lụng theo ý mình; cai ta, cai Tây không đánh đập chửi bới, chủ nhất Va-sê lành như đất, cổ đeo cây thánh giá bạc chạm nổi hình đức chúa Giê-su đóng đinh câu rút. Làm việc thì theo lối khoán, hết phần việc thì công nhân ra về, chiều thì chia đội đá bóng thoả thích, tối lại họp ban chèo hát chơi với nhau. Thật đúng là "thiên đường" Phú Riềng!
Sang đến năm 1929, công ty Mi-sơ-lanh lại thay chủ nhất và một số xu-vây-dăng. Va-sê đi, Su-ma-nhắc[46] đến. Tên này là quan ba không quân. Y mang cả vợ đầm về Phú Riềng. Su-ma-nhắc khoảng ba mươi tuổi, vốn là tư sản chính nòi, có rất nhiều cổ phần trong công ty Mi-sơ-lanh.
Sang đến thời kỳ này, rừng su Phú Riềng đã có những cây non ba tuổi, sắp đến lứa trích mủ. Cho nên Mi-sơ-lanh thấy cần phải cắt cử những người tin cẩn, có thẩm quyền của hãng đến coi sóc công việc ở Phú Riềng. Su-ma-nhắc đáp ứng đúng những điều kiện trên. Y cao lớn, nom dáng dấp đẹp, lúc nào cũng đeo kính trắng gọng vàng, nói năng ngọt như đường.
Suốt năm 1929, Su-ma-nhắc chỉ trông coi ở Phú Riềng khoảng nửa năm, còn sáu tháng y dẫn vợ đi chơi Đà Lạt, Sài Gòn, Ô Cấp, v.v... Những ngày ở Phú Riềng tuy ít ỏi như tính nết nó ra sao chúng tôi cũng đã rõ. Thằng này dâm đãng đến mức thú vật. Trong boong-ga-lô lúc nào cũng có dăm bảy người hầu, nào lái xe, làm bồi, làm bếp, thư ký v.v... Người nào y kén cũng rất kỹ: phải đẹp trai, khoẻ mạnh, trẻ trung mới được chọn. Ai đã vào làm trong boong-ga-lô của Su-ma-nhắc đều bị nó “lắp đít” để thoả mãn dục vọng thú tính. Su-ma-nhắc “làm” cho đến khi người nào người nấy ngơ ngác xanh xao mới thải ra thay người khác.
Chồng ăn chả, vợ ăn nem. Vợ Su-ma-nhắc mới khoảng hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi, đẹp quái ác mà dâm ô cũng khiếp. Con này có thằng nhân tình chính là thằng chủ nhì Pa-ri[47]. Nhưng ngoài Pa-ri, Su-ma-nhắc vợ còn bắt bồi bếp lên thoả mãn. Có thể nói chủ ông vừa nhả là chủ bà lại hứng ngay, hoặc ngược lại. Anh em công nhận bị gọi lên hầu trên boong-ga-lô chỉ hai tháng là kiệt sức, mặt mày xanh xao vàng vọt, người lúc nào cũng hâm hấp sốt, mồ hôi râm rấp trong lưng áo.
Chủ nhì Pa-ri chuyên trông coi việc giấy tờ ở buy-rô, lúc nào cũng xoắn lấy váy vợ Su-ma-nhắc. Ấy thế mà thằng Su-ma-nhắc vẫn thản nhiên bỏ mặc. Luân lý, đạo đức của bọn thực dân thật quái đản!
Bọn xu-vây-dăng dưới quyền Su-ma-nhắc còn lại thằng Đuy-răng-đê trong kíp cũ, có thêm thằng Bu-đi[48] coi làng số 2. Thằng Bu-đi cũng nổi tiếng đánh ác. Nó có lối đánh rất lạ, vút một roi xé thịt người bị đánh, nó nghiêng đầu nhìn vết thương toé máu, ngắm nghía như tay thợ thủ công ngắm sản phẩm của mình, rồi đột nhiên vung tay giáng tiếp một đòn nữa, đúng ngay vết thương cũ, không chệch một phân, nhưng mặt vẫn thản nhiên, nhâng nhâng.
Dưới thời thằng Su-ma-nhắc, vẫn cách làm khoán và có nới đôi chút điều kiện sinh hoạt cho công nhân như hồi cố đạo phá giới Va-sê. Nhưng đến lúc này, chính sách mị dân dù xảo trá đến đâu cũng không lừa bịp được chúng tôi.
Từ năm 1929, Phú Riềng đã có chi bộ Cộng sản. Tất cả những tên đao phủ nhà binh, cố đạo phá giới, tất cả các chính sách đàn áp khốc liệt mị dân xảo trá có kết hợp với đòn tra tấn tuy thâm độc đều bị phá tan.
Nhớ lúc mới đặt chân đến Phú Riềng, cảnh vật âm u của vùng rừng già đè trĩu lên lòng chúng tôi nỗi nhớ nhà, nhớ quê, thương vợ, thương con, thương thân. Thật là trăm mối ngổn ngang. Bốn bề vắng lạnh, lại phải sống với bọn thú mặt người, nào đòn roi, chằng trói, ai nấy chẳng biết mình sẽ sống chết ra sao.
Nhưng có áp bức là có đấu tranh, càng áp bức dữ càng đấu tranh khoẻ. Anh em công nhân cao su chúng tôi đã phản kháng lại bọn chủ tư bản ngay từ khi mới rời nhà ra đi. Há chúng tôi lại để cho chúng cưỡi lên đầu lên cổ, moi gan hút máu mãi sao?
Nhìn chung những cuộc đấu tranh trên nhằm đòi những quyền lợi vật chất, chủ yếu đấu tranh về mặt kinh tế nhưng cũng dần hướng tới mục tiêu chính trị. Công nhân Phú Riềng đã trở thành một lực lượng có tổ chức chặt chẽ, đấu tranh có lãnh đạo. Nó mang đầy đủ tính chất giai cấp tự giác. Điều này chứng minh rõ rệt chân lý: Phong trào đấu tranh của công nhân cộng với lý luận Mác-Lênin sẽ nẩy sinh ra sự thành lập đảng. Khi đảng thành lập rồi, giai cấp công nhân sẽ từ "giai cấp tự nó" tiến lên một trình độ cao hơn - "giai cấp cho nó".
Quả thật, chi bộ Phú Riềng hướng dẫn cuộc đấu tranh từ những hình thức thấp đưa dần lên hình thức cao. Sau này, mỗi cuộc đấu tranh còn kết hợp cả khẩu hiệu chính trị. Chẳng hạn đòi hỏi bỏ thuế thân, đòi thả tù chính trị (như đòi thả anh Trần Văn Cung).
Càng đấu tranh càng thắng lợi. Càng thắng lợi lại càng đấu tranh. Càng thắng lợi, quần chúng càng tin tưởng, càng tập họp đông đảo chung quanh chi bộ Đảng. Dần dà, chúng tôi đã biết sắp xếp lực lượng, biết đề phòng khi thế thủ, biết đánh dấn lúc tấn công. Phong trào nói chung đã phát triển cao, rộng. Có thể nói đến cuối năm 1929, chi bộ Phú Riềng đã được tuyệt đại đa số công nhân trong đồn điền ủng hộ. Số anh em còn lại cũng chịu ảnh hưởng của chi bộ, thông qua các thành viên Nghiệp đoàn.
Cũng vào thời kỳ này, phong trào nói chung của công nhân cả nước đang lên cao: Dệt Nam Định, Xi măng Hải Phòng, Diêm Bến Thuỷ v.v... Khắp nơi sôi sục. Chi bộ Phú Riềng chuẩn bị một đợt đấu tranh mới quy mô hơn cả về mục đích lẫn diện đấu tranh.
Chính vào lúc này, anh Cừ bị lộ. Bọn thống trị trục xuất anh về Bắc. Anh Cừ ra đi, giao nhiệm vụ bí thư chi bộ Phú Riềng lại cho tôi. Kể từ đây, tôi gánh một trách nhiệm nặng nề với trình độ lý luận hầu như chưa có gì và kinh nghiệm còn non kém.


CUỘC ĐẤU TRANH NĂM 1930
 Từ trước Tết năm Canh Ngọ (1930), chi bộ Phú Riềng đã chuẩn bị điều kiện vật chất, điều kiện tinh thần cho cuộc bãi công lớn sắp tới.
 Xem trong Báo Uy-ma-ni-tê, chi bộ thấy vấn đề lương thực trong các cuộc bãi công của thợ thuyền Pháp rất được chú trọng. Học tập kinh nghiệm ấy, trước khi bãi công nổ ra, chi bộ đã chú ý bàn, giải quyết vấn đề lương thực. Để chuẩn bị đủ lương ăn, đề phòng cuộc bãi công kéo dài, các đoàn viên nghiệp đoàn được lệnh trữ gạo, trữ muối, trữ cá khô. Làng nào, làng ấy đều cử người vào rừng, chọn chỗ kín đáo làm lán dấu gạo, cá và muối. Lán phải đảm bảo mưa không dột, chuột bọ không đục khoét. Ngoài ra lại phải giữ sao không lọt vào tai mắt bọn cai, bọn tay sai mật thám của chủ đồn điền. Công việc trữ lương làm dần hàng tháng trời, mỗi ngày một ít. Chi bộ còn giao một bộ phận của Xích vệ đội nhiệm vụ: khi cuộc bãi công nổ ra phải tìm cách chiếm lấy kho gạo của đồn điền, rồi chuyển lên rừng cất giấu.
 Về vũ khí cũng phải gấp rút chuẩn bị. Anh em tổ rèn trong xưởng cơ khí thuộc ga-ra dùng díp ô tô đánh cho công nhân một số dao găm, dao bảy. Những ai có búa nguyệt phải mài luôn cho bén. Và tất cả đều phải sửa soạn mỗi người một đoạn gậy, hai bó đuốc.
 Chi bộ và Ban chấp hành Nghiệp đoàn họp nhiều lần để bàn về mục đích cuộc đấu tranh. Lúc bấy giờ, công nhân Phú Riềng có yêu cầu chung nhưng từng làng lại có yêu cầu riêng. Với công nhân đồn điền, cuộc đấu tranh nhằm đòi hỏi những quyền lợi sau đây:
 - Cấm đánh đập.
 - Cấm cúp phạt.
 - Miễn sưu thuế.
- Trả lương cho nữ công nhân nghỉ đẻ.
- Ngày làm 8 giờ kể cả thời gian đi săng-chi-ê và về lán.
- Bồi thường cho công nhân bị tai nạn lao động.
Thêm vào đó là khẩu hiệu chính trị: “Đòi thả anh Trần Văn Cung”.
Đó là yêu sách chung của toàn thể công nhân trong đồn điền. Riêng đối với anh em làng số 1, 2 và 3 là lớp công nhân cùng vào một đợt với tôi, có thêm một yêu sách: Những người đã sống sót qua ba năm ở Phú Riềng, bây giờ sắp hết hạn công-tờ-ra, phải được trả về quê quán. Tiền tàu xe và mọi phí tổn do chủ phải chịu. Điều đó rất hợp lẽ, hợp tình.
Bấy giờ ở đồn điền còn một số đồng bào Thượng bị bọn Tây bắt đến làm xâu. Bọn Tây đối xử với họ tàn tệ vô cùng. Họ chỉ được phát gạo và cá khô, còn lương thì không có. Chúng tôi thường phải giúp đỡ bà con chữa bệnh giun sán, sốt rét, nên tình cảm giữa đôi bên khá mật thiết. Hơn nữa, tôi đã kết nghĩa bà con với cụ già cao tuổi nhất trong làng. Cuộc bãi công sắp tới của chúng tôi nhất thiết cần được sự hưởng ứng giúp đỡ của đồng bào. Chúng tôi bàn chuyện trước với họ. Đồng bào hiểu ngay, họ nói: “Phải đấy, “ông lớn” bắt người Mọi đi xâu quanh năm ngày tháng nên không phát được cái rẫy. “Ông lớn” lại không trả tiền. Đất của người Mọi thì “ông lớn” lấy hết cả. Bây giờ phải bảo “ông lớn” đừng bắt Mọi đi xâu nữa. “Ông lớn” trả đất cho người Mọi làm rẫy nuôi ông già, nuôi trẻ con”.
Người này nói với người kia. Cuối cùng, đồng bào hứa với bọn tôi nếu công nhân nghỉ việc đòi “ông lớn” trả tiền thêm thì họ cũng ở nhà không đến đồn điền làm nữa. Nếu công nhân trốn họ sẽ dẫn đường xuyên rừng mà đi. Nhân Tết âm lịch sắp tới, đồng bào nghỉ việc luôn. Họ hẹn chúng tôi báo tin thường ngày cho họ biết, nếu có gì xảy ra thì họ giúp. Thấy tình cảm của đồng bào đối với mình như vậy thì chúng tôi rất xúc động. Chúng tôi dặn họ đừng dẫn đường cho Tây, đừng đi lính dõng cho chúng. Chiều 27 Tết, chúng tôi tiễn đồng bào lên đường. Họ đi ngay trong đêm về làng.
Được đồng bào Thượng hưởng ứng, anh em chúng tôi rất sung sướng. Chúng tôi đấu tranh sẽ không cô độc. Khi gay go quá sẽ có chốn nương tựa. Từ đấy qua Hạ Lào, sang tận Xiêm. Cũng có người từng qua lại lối này nên thuộc đường, nếu cần sẽ trốn đi.
Chỉ một buổi chiều, mấy trăm đồng bào Thượng bị Tây bắt đi xâu ở Phú Riềng đã về làng hết sạch, không còn một ai. Chính vì vậy, bọn chủ đồn điền không kiếm ra một công lao động thay thế nào khi cuộc bãi công của chúng tôi nổ ra.
Đêm 28 Tết, Ban chấp hành Nghiệp đoàn cao su Phú Riềng chấp hành chỉ thị của chi bộ Đảng triệu tập một cuộc hội nghị đại biểu của năm làng công nhân ở ngoài rừng. Anh em đi họp đông đủ. Cuộc họp tiến hành bí mật nhưng rất sôi nổi. Trời rét căm căm, tối đen như mực, mấy ngọn đuốc đốt lên chỉ đủ soi tỏ và sưởi ấm một khoảng rừng nhỏ xa làng, xa lán. Các đại biểu ngồi túm tụm, co ro vì rét, nhưng cứ nhìn những ánh mắt long lanh, nghe giọng nói sôi nổi thì cũng đủ thấy sự hăm hở của cả Phú Riềng. Những yêu sách do chi bộ đề ra được đại hội đại biểu tán thành. Các đại biểu nhận nhiệm vụ trở về làng chuẩn bị gấp rút thêm những phần việc còn dở dang.
Không khí các làng công nhân bấy giờ sôi nổi. Mặc dù chi bộ chủ trương chỉ bãi công, nhưng anh em chuẩn bị vũ khí rất tích cực, tưởng như chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa. Điều đó có mặt tốt, nhưng cũng có mặt không tốt. Chúng tôi có khuyết điểm là không uốn nắn kịp thời hiện tượng trên. Nhưng thú thực trong thâm tâm, chúng tôi cảm thấy rất hào hứng trước không khí sôi sục ấy. Cả rừng su như nổi bão đến nơi. Những ai đã phải chứng kiến cảnh công nhân chúng tôi từ bao năm trời nay cắn răng chịu đựng quằn quại dưới sự hà hiếp, chà đạp của giặc thì lúc này đây, thấy anh em chúng tôi đang vặn mình đứng dậy, chắc họ cũng không khỏi có những cảm giác như chúng tôi.
Báo chí công khai bấy giờ đăng tin cuộc bãi công của chúng tôi bắt đầu vào ngày mùng 3 tháng 2 năm 1930, tức là mùng năm tháng giêng năm Canh Ngọ. Thực ra, cuộc đấu tranh bắt đầu ngay từ ngày mùng một Tết, tức là vào ngày 30 tháng giêng năm 1930.
Trước đấy mấy ngày, chủ nhất Su-ma-nhắc đã đánh hơi thấy sắp có chuyện xảy ra. Vì thực ra, anh em chúng tôi chưa có kinh nghiệm nên công việc sửa soạn, chuẩn bị làm khá lộ liễu. Su-ma-nhắc cho tay chân nhắn với công nhân rằng đến sáng mùng một lên chúc Tết, Su-ma-nhắc sẽ thưởng tiền cho mọi người. Ý nó muốn xoa dịu, dùng không khí vui vẻ ngày Tết để mua chuộc chúng tôi. Chúng tôi cũng nhờ bọn tay chân của chủ nhất đánh tiếng với Su-ma-nhắc rằng: Sáng mùng một, chúng tôi sẽ lên chúc tết ông chủ.
Đến sáng mùng một, chúng tôi có mặt đông đủ. Từ sớm, công nhân các làng theo sự chỉ huy của các tiểu đội trưởng Xích vệ xếp hàng kéo nhau lên boong-ga-lô của Su-ma-nhắc. Anh em kéo đi rầm rập, có tổ chức. Hết làng này đến làng kia, không ồn ào, không chen lấn. Trong tay mỗi người lăm lăm cầm một cây gậy.
Theo đúng tập tục của Phú Riềng, những Tết năm trước, đội lân của chúng tôi đi đầu. Anh em trong đội lân toàn những tay chiến, được chọn lọc ở Xích vệ đội. Người nào đầu cũng bịt khăn đỏ, áo đỏ, quần xanh, thắt dây lưng bỏ múi. Ai nấy đều cầm côn, cầm búa đi hai bên hộ vệ cho người múa lân. Đoàn người càng đi càng kéo dài thêm ra. Cứ qua một làng lại đông thêm vài trăm con người. Cuối cùng, năm nghìn công nhân của cả đồn điền Phú Riềng đều kéo đến trước sân nhà của Su-ma-nhắc.
Thằng này biết có chuyện nhưng vẫn làm gan, đứng ra đón anh em từ ngoài thềm. Mặt nó vẫn nhơn nhơn, miệng phì phèo điếu thuốc lá ngậm lệch, nhưng cứ nom tròng con mắt xanh lè nhớn nhác đảo quanh thì cũng biết là bụng nó đang chờn. Anh em chúng tôi đông đúc với khí thế khác hẳn mọi năm.
Theo đúng kế hoạch, công nhân vây quanh sân, ngồi trật tự xem đội lân múa. Đội lân múa đủ các kiểu. Con lân to gần bằng cả tấm phản do anh em tự thửa lấy, đuôi chập mấy khổ vải đỏ lại làm một, chồm ra giữa sân. Thật là khí thế. Lân giỡn cầu, lân giỡn với tay kiếm, tay côn. Những tay kiếm, tay côn hôm nay tung hoành ngang dọc mặc sức. Những miếng gậy, thế võ học được, anh em giở ra múa thỏa chí. Thỉnh thoảng kiếm côn lại choang vào đầu lân đánh "bụp" làm dậy lên những tiếng cười reo, thích thú trong đám người xem vây kín chung quanh. Tiếng trống, tiếng thanh la nổi vang rừng cao su rồi vọng lại không dứt.
Thấy bọn tôi không làm giữ, Su-ma-nhắc đâm bạo dạn, xuống hẳn mấy bực thềm. Chắc hắn vừa uống no rượu nên mặt đỏ như gà chọi, dáng đi loạng choạng chực ngã. Hắn nhổ điếu thuốc lá, nhếch mồm cười với anh em. Chúng tôi giả tảng không để ý, cứ chú mục xem múa lân.
Su-ma-nhắc giở thủ đoạn mấy năm cũ. Nó gọi bọn tay chân mang đến mấy két hào bạc rồi bốc tung hê ra sân. Nó tưởng như mọi năm, công nhân sẽ ùa nhau vào tranh cướp, bày trò cười cho nó khinh bỉ đứng xem. Nhưng năm nay, sự việc diễn ra khiến nó vừa tức vừa sợ lại vừa bẽ mặt. Hào một, hào đôi, năm xu kền mặc sức lăn boong vào chân công nhân, nằm trắng xoá trên mặt đất, nhưng không một ai buồn nhặt.
Đội lân vẫn cứ múa. Lân diễu võ dương oai, khác hẳn lối múa năm trước. Nó không phủ phục xuống lễ, không liếm đất, không bái lạy khuất phục. Trái lại như một chúa sơn lâm hùng dũng giỡn với võ sĩ đánh gậy. Giỡn chán, lân xoay mặt hướng về bốn phía công nhân mà vờn. Bọn tôi sướng quá la lên khen ngợi. Thôi thì cười, nói ầm i, choang choang.
Cuối cùng lân vượt ngang sân giẫm chân lên xu, hào rơi trắng xoá mặt đất, tiến lên thềm boong-ga-lô tung râu cước trắng, lắc đầu quậy quậy ra oai như muốn thách thức. Trông mặt Su-ma-nhắc cũng biết hắn đang tức lộn ruột. Anh em công nhân thì khoái trá. Su-ma-nhắc khoát tay khoát chân ra hiệu cho đám lân ngừng lại rồi sai thông ngôn hỏi chúng tôi:
- Quan lớn tốt, quan lớn thưởng tiền sao anh em không lấy?
Anh em đã cử sẵn người đứng lên trả lời:
- Ngày tết anh em múa lân cho vui làng vui xóm thôi!
Xu-ma-nhắc cười nhạt chúc tết bọn tôi:
- Năm mới, quan lớn chúc anh em làm lụng khoẻ, quan lớn sẽ tăng lương!
Bấy giờ theo đúng kế hoạch định trước, đồng chí Hồng, đồng chí Tạ và tôi thay mặt anh em "chúc Tết" lại chủ:
- Hôm nay là ngày Tết, quan lớn chúc anh em làm khoẻ, anh em xin cảm ơn! Về phần anh em cũng xin chúc quan lớn năm nay tốt hơn nữa với anh em. Quan lớn bảo cai ký đừng cúp lương, phạt lương, đừng đánh đập anh em. Ai chửa đẻ, quan lớn phát gạo cho người ta mẹ tròn con vuông. Quan lớn đừng thu thuế thân của anh em. Ba năm anh em làm trong đồn điền rồi, anh em hết hạn công-tờ-ra thì quan lớn cho anh em về với bố mẹ, vợ con, làng xóm quê hương. Quan lớn tốt, quan lớn xin chinh phủ thả ông Trần Văn Cung ra vì xét cho cùng ông Cung chẳng có gì đáng buộc tội cả. Ngày Xuân, năm hết Tết đến, anh em biết sao nói vậy, nghĩ gì chúc nấy. Quan lớn tốt quan lớn làm cho anh em...
Bọn tôi cứ nửa nạc nửa mỡ đưa những yêu sách dưới hình thức chúc Tết khiến Su-ma-nhắc tức điên người mà chẳng làm gì được. Hắn ừ ào hứa sẽ xét. Sau đó, chúng tôi lại nổi trống, múa lân một hồi rồi rầm rộ ra về. Bỏ lại sân nhà Su-ma-nhắc trắng xoá bạc, hào. Chủ nhất sợ quá và cũng bẽ quá! Chưa bao giờ nó lại thấy một cảnh "chúc Tết" như thế. Đòn thị uy ra quân của chúng tôi đã thắng, nhất là về mặt tinh thần. Anh em ra về cười nói râm ran, có người giả cách nhại lại bộ mặt chưng hửng dài thượt của Su-ma-nhắc khi thấy chúng tôi chẳng một ai tranh cướp tiền bạc tung hê của hắn. Anh em cũng nhắc lại những yêu sách của chúng tôi qua hình thức "chúc Tết" nửa nạc nửa mỡ ấy, rồi bàn bạc tranh cãi sôi nổi.
Trong ba ngày Tết được nghỉ, theo đúng chủ trương của chi bộ, Nghiệp đoàn tăng cường hoạt động để gắn bó công nhân chặt chẽ hơn. Ban ngày, anh em qua lại thăm hỏi nhau nườm nượp, chiều và trưa làm cơm nước ăn chung với nhau. Tối đến trống chèo, trống lân nổi lên, bà con lại kéo nhau đến dự rất đông. Tranh thủ trước khi mở màn, đại biểu Nghiệp đoàn lên nói chuyện với công nhân. Nội dung nói chuyện là: "Tại sao đời ta khổ cực? Chúng ta phải đồng tâm hiệp lực thế nào để đòi được quyền sống?". Chúng tôi trương cờ búa liềm lên. Đây là lần đầu tiên, lá cờ ra mắt công khai trước đông đảo bà con trong đồn điền. Anh em công nhân trầm trồ nhìn ngắm lá cờ. Màu cờ đỏ rực như bầu máu nóng sôi sục của anh em lúc bấy giờ. Chiếc búa và lưỡi liềm vàng đặt trên cờ, chính là những vật dụng hàng ngày của anh em rồi. Đó chính là lá cờ của những người vô sản.
Cuộc nói chuyện và những hoạt động khác của chi bộ, của Nghiệp đoàn đã tác dụng rất lớn đến tinh thần đấu tranh của công nhân. Tình đoàn kết tăng thêm, anh em nhận thấy nếu đoàn kết chặt chẽ thì họ trở thành một lực lượng to lớn.
Bọn chủ không phải không đánh hơi thấy. Chúng tung bọn tay chân xuống bám sát dò tin. Nhưng mấy thằng mật thám bị thanh niên Xích vệ đội tóm được; gán cho chúng đủ thứ tội ăn cắp, tán gái, phá đám để có cớ mà đánh một trận nhừ tử.
Lúc bấy giờ ở làng số 2 có một đoàn viên nghiệp đoàn ốm chết. Anh em chúng tôi tổ chức đi đưa ma người xấu số rất đông. Lợi dụng đám đông tụ họp, Nghiệp đoàn cử người nói mấy lời từ biệt với kẻ đã khuất, nêu lên câu hỏi: Vì sao anh ốm chết? Bọn Tây thấy nguy, định cản trở và giải tán đám tang. Nhưng bọn tôi không chịu, cuối cùng chúng phải để chúng tôi tiếp tục công việc.
Qua ba ngày Tết, Nghiệp đoàn thông báo lệnh bãi công cho anh em. Nghiệp đoàn dặn dò: Đâu cứ ở đó đến bao giờ bọn chủ chịu giải quyết những yêu sách của mình, Ban chấp hành Nghiệp đoàn thông báo, anh em hãy đi làm. Tất cả đều nghe theo răm rắp.
Sáng mùng ba Tết, bọn Tây rúc còi mỏi mồm nhưng công nhân không ra điểm danh, chỉ trừ vài thằng tay sai lẻ tẻ tuân theo hiêu gọi của chúng. Bọn cai Tây sục sạo định thức anh em đi làm nhưng đến đâu chúng cũng bắt gặp những ánh mắt quyết liệt. Chúng đâm sợ rút cả về nhà chủ nhất và thả tay chân đi dò la.
Lúc bấy giờ có một thằng mật thám, quê ở Bắc Ninh, làm y tá ở làng số 2. Thằng này đang lởn vởn nghe ngóng bị anh Lự bắt gặp. Anh Lự làm cai nhưng đứng về phía công nhân. Anh to lớn, tính nóng như lửa, đấu tranh rất hăng. Bắt gặp tên mật thám đang nghe ngóng, anh Lự nện luôn. Thằng này vùng bỏ chạy, lập tức Lự đuổi theo. Thằng mật thám bị Lự đuổi tới tận sân nhà chủ nhất. Bọn cai Tây thấy động ùa cả ra. Chúng túm lấy Lự, vu cho tội ăn trộm rồi giam lại.
Ở nhà, anh em được tin bèn thông báo cho các làng khác. Lập tức, làn sóng căm phẫn ầm ầm trào dâng. Tất cả mấy nghìn công nhân đùng đùng kéo lên sở. Anh em hò la đòi thả ngay anh Lự. Những yêu sách đã đề ra từ hôm mùng một Tết mà chủ nhất đã ừ ào hứa sẽ xét lúc này cũng được nhắc đi nhắc lại.
Su-ma-nhắc đóng cửa, không dám ra. Anh em vây vòng trong vòng ngoài, hò la rầm trời. Suốt chiều hôm ấy, qua một đêm, đến sáng hôm sau (mùng bốn Tết) anh em vẫn không lơi lỏng hàng ngũ. Đội Xích vệ cắt người canh gác. Còn lại đều nằm ngay sân đồn điền ngủ để giữ sức. Các làng số 9, số 10 ở xa nên mãi tới tám giờ sáng mới kéo đến. Có thêm sinh lực, tinh thần đấu tranh của anh em càng hăng. Tin đấu tranh lan đi, các kíp chặt củi, phát hoang ở xa hơn cũng bỏ việc kéo cả về. Tiếng trống đổ hồi thúc vang, truyền từ làng này sang làng khác gọi những anh em còn sót lại ở nhà cùng lên bàn giấy chủ nhất luôn thể.
Bão đã nổi dậy ở Phú Riềng!
Năm nghìn công nhân lao khổ đã đứng lên. Tất cả vây tròn lấy dãy dinh cơ nhà trại của bọn chủ, chốc chốc lại hò la đòi chúng phải thoả mãn các yêu sách đã đề ra. Không khí đấu tranh sôi sục khiến cho Su-ma-nhắc sợ xanh mắt. Nó chèn kỹ các cửa và lén gọi điện thoại cho đồn binh Phú Riềng mang lính đến giải vây.
Chính quyền thực dân nhận được tin của Su-ma-nhắc cũng hoảng hốt chẳng kém. Tên đồn trưởng vội vã tìm cách trấn áp công nhân. Mười giờ sáng, một thằng đội Tây dẫn 25 lính khố đỏ tiến vào khu vực đồn điền. Lúc ấy có một toán anh em ở các làng số 2, số 3 mới thu xếp xong việc để lên sở đấu tranh. Bọn lính định ngăn đoàn biểu tình lại, giải tán họ trước khi tiến vào đàn áp số anh em đang vây Su-ma-nhắc. Thằng đội Tây giơ súng lục doạ:
- Đứng lại ngay! Chúng mày làm loạn đấy à?
Đoàn biểu tình có một tốp phụ nữ đi đầu cứ tiến lên. Thằng Tây hô tiếp:
- Phải nghe quan lớn! Tất cả giải tán ngay, không quan lớn bắn!
Nhưng chẳng ai đếm xỉa đến lời doạ dẫm ấy. Họ cứ rầm rập xông thẳng đến, khí thế mạnh mẽ khác thường. Thằng Tây hô lính bắn chỉ thiên để dọa. Nghe tiếng súng, hăng lên, anh chị em trong đó có khá nhiều đội viên Xích vệ sấn ngay vào. Người thì bốc cát ném vào mặt bọn lính, làm cho chúng không mở nổi mắt ra, người thì dùng gậy đánh nhau với bọn chúng. Có chị rất hăng, quơ tay ôm ngang lưng lính mà vật nó ngã kềnh rồi cướp lấy súng. Thằng đội Tây giơ súng chĩa thẳng vào đoàn người định bắn, nhưng một đội viên Xích vệ nhảy ngay tới nện cho nó một cán cuốc gẫy tay. Nó la om lên:
- Thôi thôi, đừng đánh quan lớn! Quan lớn không bắn nữa!
Thế là những thằng còn lại ù té kéo nhau bỏ chạy. Quần áo tơi tả, chúng chạy như vịt ra xe hơi, chuồn thẳng về Sài Gòn. Anh em ta tước được bảy khẩu súng trận và bắt sống năm tù binh. Họ giải mấy thằng lính bị bắt và vác súng lên sở.
Tin lính đồn bị thua lập tức được truyền đi. Anh em hò reo sung sướng. Hăng lên, nhiều người xông thẳng đến toà nhà mà bọn chủ đang nấp, đập cửa rầm rầm. Su-ma-nhắc sợ quá phải mở cửa điều đình. Chúng tôi cử anh Hồng, anh Tạ làm đại diện, tôi được anh em yêu cầu tránh mặt. Hai đồng chí Hồng và Tạ đưa yêu sách đã định từ trước. Nói điều nào Su-ma-nhắc nhận ngay điều ấy, không dám chần chừ. Biên bản được ký ngay, một bên là đại biểu công nhân, một bên là Su-ma-nhắc - đại diện bọn chủ. Các đại biểu giơ cao tờ biên bản báo cáo kết quả điều đình thắng lợi với toàn thể anh em công nhân. Tiếng reo hò ầm vang khắp ngả, nhiều người nhảy lên mà hô. Trước cảnh tượng ấy, bọn chủ cúp đầu cúp tai nấp kín trong nhà, không dám ho he một tiếng.
Cuộc đấu tranh đã thắng lợi bước đầu. Bọn chủ đã phải chấp nhận toàn thể yêu sách của công nhân. Kinh nghiệm đấu tranh của chúng tôi hồi ấy cũng chỉ giúp chúng tôi hành động đến mức ấy. Nghiệp đoàn ra lệnh cho anh em giải tán. Tất cả anh em công nhân phấn khởi tràn trề, rầm rộ kéo về các làng.
Từ sở đồn điền của bọn chủ, chúng tôi tổ chức biểu tình tuần hành trong đồn điền. Các đồng chí đảng viên, các uỷ viên Ban chấp hành Nghiệp đoàn đi đầu. Liền kế là đoàn nữ công nhân gồm ba trăm chị em, cuối cùng là công nhân của cả mười làng. Anh em Xích vệ đội vác bảy khẩu súng tước được của lính và mười mấy khẩu súng chim tịch thu của sở đi hai bên để hộ vệ cho đoàn biểu tình. Chốc chốc họ lại nã "đoàng" một phát lên trời.
Đoàn biểu tình vẫn đi. Anh em trương cờ búa liềm lên đầu, và hát vang bài Quốc tế ca:
"Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian!
Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn..."
Phải, những người nô lệ bần hàn như chúng tôi đã vùng lên rồi! Mấy tay cai, ký lừng chừng xưa nay cũng xuống đường nhập bọn với chúng tôi. Hát xong Quốc tế ca, chúng tôi lại hoà lời hát bài cách mạng theo điệu "Hành vân":
Cực quá rồi, các bạn thợ thuyền ơi!
Chúng ta muốn sống phải quyết một phen,
Phá khai con đường xích lộ
Ta làm nó hưởng,
Chịu sầu bi sống thảm đã lâu,
Nỗi bất bình chịu hoài sao được.
Thầy có Đảng, bạn có Nông.
Họp sức đồng lòng,
Trận này đánh đổ
Cả quyền Tây, Nam triều.
Làm cho hết sức
Sứ mạng thợ thuyền.
Đạp đổ cường quyền,
Cả năm châu, năm châu
Cuộc đời này phải phá cho mau
Lập ra cuộc xã hội chủ nghĩa,
Mới xong bình đẳng tự do.
Bọn chủ mấy hiệu tạp hoá, họ hàng dây mơ rễ má với tụi vợ Tây, sợ quá giở pháo ra đốt mừng để nịnh chúng tôi. Nhưng đoàn biểu tình không thèm để ý, cứ diễu hết làng này sang làng khác. Gặp bãi đất rộng nào cũng dừng lại. Một đồng chí trong chi bộ hoặc một đồng chí trong Ban chấp hành Nghiệp đoàn chọn mô đất cao, đứng lên diễn thuyết. Bấy giờ lý luận cũng chưa có gì. Những điều người này vừa nói, lát nữa người khác nói lại. Ấy thế mà diễn giả lên nói đến khản cổ mà người nghe vẫn cứ say sưa không biết chán.
Sau đó, chúng tôi kéo về làng số 3. Ở đây, bọn chủ có lập một nhà máy cưa khá lớn. Chung quanh nhà máy có hàng rào chắc chắn. Mấy tên xu-vây-dăng Tây hy vọng nếu trốn vào đấy sẽ thoát được cơn bão nổi lên dữ dội mấy ngày nay. Những tên xu-vây-dăng ta cũng theo gót chúng, ẩn cả vào đấy.
Nhưng chúng không biết rằng ở đây phong trào công nhân rất mạnh. Người lãnh đạo làng 3 là đồng chí Doanh. Một số anh em đã được bố trí ngầm trong nhà máy cưa làm nội ứng. Khi đoàn biểu tình tuần hành kéo tới, bọn xu Tây hoảng sợ. Chúng có súng nhưng không dám bắn, sợ bắn thì cũng chết với quần chúng. Mấy thằng chạy ngược chạy xuôi trong nhà máy, gắt nhau ỏm tỏi.
Đoàn người ào tới, hăng hái nhất là anh em thanh niên Xích vệ, trong đó có số đội viên của đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng. Cổng nhà máy khoá chặt. Anh em nắm gióng cửa rung rầm rầm. Một số công kênh nhau leo qua rào. Cũng đúng lúc ấy, số anh em bí mật ở xưởng cưa đã lấy gỗ làm vũ khí, đập cho mấy thằng xu Tây một trận mê tơi. Có thằng bị què tay, sau phải vào nhà thương Sài Gòn. Một anh mở khoá cổng. Cửa bật tung ra và dòng người tràn vào nhà máy như thác đổ. Bọn Tây sợ quá giơ tay xin hàng. Chúng tôi tước luôn mười mấy khẩu súng, vừa súng trận vừa súng săn, rồi đàng hoàng lội trở về làng số 2. Ở đây còn ga-ra ôtô và nhà máy điện, nhà máy nước. Nhà máy nước khá lớn, có cả đài nước đổ bê tông cao chót vót. Chúng tôi ùa vào chiếm luôn. Thực ra chỗ này không có Tây canh giữ.
Thế rồi anh em chia làm mấy cánh. Cánh thì đi chiếm vườn ươm cây. Ở vườn ươm có kho dụng cụ chứa khá nhiều búa nguyệt và dao dựa làm vũ khí. Cánh thì đi chiếm kho gạo. Chiếm xong kho gạo có thể coi như thắng lợi hoàn toàn. Anh em kéo cờ búa liềm, giơ súng, giơ búa vừa đi vừa hô khẩu hiệu. Chốc chốc lại hát một bài và điểm vài tiếng súng thị uy nổ cái "đòm". Đến xế chiều, chúng tôi kéo về văn phòng sở. Đang lúc tinh thần hăng hái, anh em xông ngay vào chiếm luôn.
Lúc này, cả đồn điền Phú Riềng đã thuộc về tay chúng tôi. Bọn chủ nhất, chủ nhì, cai sếp, cai Tây, thừa lúc chúng tôi ra về và tổ chức biểu tình tuần hành, đã len lén chuồn sạch. Nhà cửa, bàn giấy của chúng trống không. Bao nhiêu công-tờ-ra chúng tôi vác cả ra sân, nổi một đống lửa đốt. Anh em vứt cả biển phu vào đốt luôn. Nhìn ngọn lửa bốc cao, anh em tưởng thế là đã xoá sạch mọi dấu tích nô lệ, từ đây trở đi sẽ hoàn toàn tự do!
Những phút phấn khởi này không thể nào quên! Sung sướng quá!
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi có ba thời điểm mà tôi phấn chấn nhất. Đó là ngày đấu tranh chiếm được chính quyền ở Phú Riềng, những ngày Cách mạng Tháng Tám và những ngày kháng chiến thắng lợi.
Lúc ấy, tôi chợt nhớ đến lời dạy của Mác: "Người vô sản đấu tranh nếu được là được cả thế gian, nếu mất chỉ mất cái xiềng nô lệ". Quả là toàn bộ khu Phú Riềng rộng lớn đã vào tay chúng tôi. Điều đó khiến tôi và anh em say sưa, nhưng chưa lường hết khó khăn, chưa nhìn rộng ra tình hình cách mạng cả nước. Thú thực trình độ anh em ở Phú Riềng lúc bấy giờ không cho phép thấy rõ được điều đó.
Say sưa! Đến tối mịt, mọi người mới sực nhớ từ sáng đến giờ chưa có hột cơm vào bụng. Thế là nổi đuốc lên, đoàn người theo các đồng chí lãnh đạo biểu tình kéo về kho lương thực. Vừa đi vừa hát, vừa hô khẩu hiệu vang cả rừng. Đến nơi, mở cửa kho lấy gạo, lấy cá ra. Bò của đồn điền vật luôn mấy con. Bộ phận nào làm cơm thì làm cơm. Đội chèo chuẩn bị tiết mục để diễn.
Thế rồi cơm chín, thức ăn làm xong được bưng lên. Chúng tôi mở tiệc mừng Tết chiến thắng. Thật linh đình! Tiệc tan đến diễn chèo. Tối đó, anh em đội chèo diễn một vở rất hợp với tình đoàn kết của mấy nghìn công nhân cao su Phú Riềng bấy giờ - đó là tích "Đào Viên kết nghĩa". Vở chèo nói về tình anh em kết nghĩa đồng sinh đồng tử của ba người: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi thời Tam Quốc. Vì vậy, tích chèo được hoan nghênh nhiệt liệt.
Tôi chỉ được nghe kể lại mà không được xem vì trong khi anh em đang vui say thì chi bộ nhóm họp. Cuộc họp đặc biệt này tiến hành trong một căn lều nhỏ ở sau làng số 3. Đến lúc này, xa bầu không khí sôi sục ở khu trung tâm đồn điền, không nghe thấy tiếng hô khẩu hiệu, tiếng súng bắn chỉ thiên, tiếng ca cách mạng, chi bộ mới có điều kiện bình tĩnh lại để nhận định tình hình một cách sáng suốt.
Cuộc họp rất căng, tiến hành suốt đến sáng. Lúc bấy giờ có hai chủ trương trái ngược hẳn nhau:
- Một là nếu địch đem quân lên khủng bố thì đánh trả. Ta sẽ ngả cây chặn các nẻo đường vào đồn điền. Những nơi xung yếu quan trọng sẽ bố trí Xích vệ đội mang súng giữ. Còn bao nhiêu thì đảm nhiệm việc tuần phòng, canh gác kho lương, canh gác máy điện, máy nước. Chủ trương này trùng với tâm lý của đại đa số anh em công nhân lúc ấy. Ngay trong đêm, khi xem chèo về, anh chị em tự động chia nhau sắm sửa khí giới. Có người khâu những túi tro bếp để sẵn sàng ném vào mắt địch, có người tra lại cán búa cho chắc. Xích vệ đội thì dạy nhau bắn súng vì tuyệt đại đa số anh em chưa biết bắn cái súng ra làm sao. Họ nghĩ rất đơn giản và rất anh hùng: "Sống chết có cần gì! Mai nó lên ta cứ đánh. Đã đánh là đánh đến cùng". Tinh thần tấn công ấy thật đáng khâm phục.
- Chủ trương thứ hai bị thiểu số, trong đó có tôi. Tôi nói: "Đảng chưa chỉ thị cướp chính quyền. Nếu cướp, phải cướp cùng một lúc khắp mọi nơi trong cả nước. Như vậy, địch sẽ không cứu ứng được cho nhau. Bây giờ, Phú Riềng nổi dậy riêng rẽ, địch sẽ đem quân lên khủng bố đàn áp. Ta phải chuyển hướng đấu tranh để tránh tổn thất”.
Chủ trương thứ hai lúc mới đưa ra bị phản đối kịch liệt. Mấy anh em tôi ra sức thuyết phục phái chủ chiến. Chúng tôi nhấn mạnh đến việc bảo vệ lực lượng, bảo vệ đời sống và tính mệnh của năm nghìn con người ở Phú Riềng. Tôi nói: "Đế quốc và tàn bạo chỉ là một. Một khi đã tập trung được lực lượng, chúng sẽ chẳng ngần ngại gì mà không tiêu diệt cả năm nghìn con người trong tay hầu như không có vũ khí". Tổn thất đau xót trong vụ bạo động giết tên Mông-tây năm trước cũng được nhắc lại.
Lúc ấy phái chủ chiến cho rằng: chuyển hướng hành động là hèn nhát, sợ giặc. Phái đấu tranh với chủ trương quyết liều mạng với giặc một phen để tỏ tiết tháo anh hùng. Chúng tôi phải lấy sách cổ ra để giải thích: "Biết mình, biết người, trăm trận đánh, trăm trận thắng!" và "Người anh hùng phải biết tiến biết thoái, tiến có thể đánh, thoái có thể giữ...".
Trải qua gần một đêm đấu tranh nội bộ, cuối cùng chi bộ nhất trí chuyển hướng đấu tranh. Các đồng chí chia nhau đi các làng giải thích chủ trương mới. Lại một lần thuyết phục gay go nữa mới ổn.
Chấp hành chỉ thị chi bộ, Xích vệ đội mang toàn bộ số súng tước được lên dựng một dãy ở tường nhà bàn giấy của chủ nhất. Nghiệp đoàn chuyển một số gạo, cá, muối, cất giấu ra ngoài rừng như đã bàn định từ trước, đề phòng địch hãm lương. Công nhân thì giải tán, đâu về làng đó. Cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục nhưng chúng tôi chỉ bãi công mà thôi.
Để cho chủ trương mới thi hành được tốt, chúng tôi phải giải thích, thuyết phục rồi huấn luyện anh em cách đấu tranh hợp pháp với đế quốc. Anh em thông hiểu dần dần. Vì chúng tôi ra mặt quá nhiều, nên mấy thằng tay sai của chủ trà trộn trong công nhân đã biết rõ gốc tích các đồng chí trong chi bộ và Nghiệp đoàn. Do thiếu kinh nghiệm mà sau này chúng tôi đã bị địch gây cho một số tổn thất.
Bọn địch bắt đầu huy động lực lượng đối phó từ chiều mùng năm Tết. Chiều hôm ấy, hai chiếc máy bay bà già[49] vè vè lượn mấy tiếng đồng hồ trên không phận Phú Riềng, vừa để dò xét tình hình vừa để ra oai với chúng tôi.
Ngày hôm sau, Công sứ Biên Hoà Mác-ti[50], Phó công sứ Vin-mông[51], Thống đốc Nam Kỳ Cơ-rô-hây-me[52] và Chánh mật thám Đông-dương Ác-nu[53] đi xe bọc sắt cùng hai mươi xe ca-mi-ông[54] chở ba trăm lính lê dương và năm trăm khố đỏ kéo lên Phú Riềng.
Cách địa phận đồn điền vài cây số, chúng xuống xe dàn quân, súng lăm lăm, chia mấy ngả ập vào. Bọn đế quốc quyết tâm tiêu diệt toàn bộ, khi chúng tôi có hành động phản kháng. Nhưng chúng đã bị "nhỡ tầu". Đi đến đâu, chúng chỉ thấy công nhân sinh hoạt bình thường. Anh em rủ nhau xếp hàng, ngồi trật tự nghe đại biểu của mình đấu lý với bọn chủ.
Tên Thống đốc Cơ-rô-hây-me quát chúng tôi:
- Tại sao các quan lớn phải mang lính, mang súng lên đây làm gì, chúng mày có biết không?
Đồng chí Hồng, bấy giờ là đại biểu công khai, đứng ra đáp:
- Chúng tôi không được biết!
- Các quan phải mang lính lên vì chúng mày làm loạn!
- Đâu có! Chúng tôi làm loạn bao giờ?
- Chủ hãng bảo rằng chúng mày đánh ông đồn, đánh lính cướp súng?
- Chủ hãng nói không đúng! Chính ông ta sai người đánh đập chúng tôi. Chết nhiều lắm. Chúng tôi kêu Nhà nước soi xét, bảo chủ hãng đừng đánh đập chúng tôi, đừng cúp lương chúng tôi. Làm như vậy chúng tôi khổ lắm!
- Chúng mày kêu cứ kêu, sao lại dám ở nhà không đi làm?
- Chúng tôi kêu mãi rồi, ông chủ không nghe. Chúng tôi đói mệt quá không ra săng-chi-ê được!
Thằng Chánh mật thám Ác-nu sừng sộ hỏi:
- Chỉ láo! Thế tại sao chúng mày cướp của các quan?
- Đâu có! Các ông lính chẳng hiểu sợ cái gì, quẳng súng lại rồi bỏ đi đấy chứ. Súng vẫn dựng kia kìa!
Chúng tôi chỉ mấy khẩu súng xếp dãy ở chân tường. Bọn thực dân chẳng hiểu ra làm sao. Chúng mang binh hùng tướng mạnh lên Phú Riềng những tưởng đem thép cứng chọi đá rắn. Không ngờ vấp phải bị bông. Chẳng có chứng cứ gì để tàn sát anh em công nhân, chúng đâm ra lúng túng rồi oay hoay bàn tán với nhau. Cuối cùng, mấy tên đế quốc đành phải nhờ thông ngôn nói với chúng tôi:
- Quan lớn bảo chúng mày về làng. Mai sớm đi làm tử tế, chủ sẽ đối đãi tốt.
Anh em giải tán rất trật tự. Thừa lúc ấy, bọn tay chân trà trộn trong công nhân chỉ mặt cho Ác-nu bắt một số anh em. Giặc đưa anh em lên xe, toan giải đi. Thế là năm nghìn công nhân quây ngay lại, bám vào thành ca-mi-ông, giành nhau với bọn lê-dương để giữ người của mình. Anh em nói:
- Quan lớn vừa bảo quan lớn tốt, đâu cứ về đó. Thế mà bây giờ quan lớn lại bắt người chúng tôi. Muốn bắt thì bắt cả mấy nghìn anh em. Chúng tôi đi tù hết!
Anh em đấu tranh ôn hòa nhưng rất găng. Cuối cùng, chúng phải thả anh em bị bắt.
Số lính lê-dương và khố đỏ sau đấy phải rút khỏi đồn điền, vì chúng tôi đã bí mật tháo cánh quạt máy bơm. Không có nước dùng cho số đông quân nên chúng phải rút ra Biên Hoà rồi về Sài Gòn. Bọn lính ở đồn Phú Riềng được tăng cường thêm một trung đội. Bọn Tây rút quân, nhưng đã bí mật cài lại nhiều mật thám.
Sau đó, bọn chủ đồn điền lấy cớ số gạo ở kho còn ít, chỉ phát cho những người có công lao động mà thôi. Chúng định dùng “hình phạt đói” để phá cuộc bãi công, buộc công nhân phải đi làm. Nhưng nhờ số gạo chuyển ra rừng từ trước, công nhân vẫn ở làng như thường và cuộc bãi công vẫn tiếp tục.
Ngay sau đấy, vì kinh nghiệm hoạt động bí mật còn non, vì say sưa trong ngày nổ ra đấu tranh, đa số các đồng chí trong chi bộ và Ban chấp hành Nghiệp đoàn đều bị lộ. Quần chúng thì chưa được huấn luyện kỹ về công tác bí mật, nên bọn mật thám đã dò ra dấu tích của bọn tôi. Bọn chủ nắm được đầu não của cuộc bãi công, muốn phá phải đánh vào đấy. Chúng mượn hết cớ này đến cớ khác để bắt dần các đồng chí của ta. Lần lượt các đồng chí Tạ, Hồng, Hoà... bị rơi vào tay giặc trong những tình huống khác nhau. Sau đó đến lượt tôi bị chúng tóm được khi đang tuyên truyền mấy anh lính người Thượng. Trong túi tôi lúc ấy còn cả truyền đơn in cờ búa liềm. Bằng đủ mọi mánh khoé, chúng dò ra được cả cơ quan in ở ngoài rừng và thu được một ít giấy, mực và khuôn thạch. Sau đó, chúng bắt tiếp hàng trăm anh em khác.
Song song với việc trấn áp, bắt bớ cán bộ và quần chúng tích cực của phong trào, bọn chủ cũng phải nhượng bộ một số yêu sách đã ký. Chúng phát gạo tốt, cải tổ một số điều kiện chữa bệnh ở trạm xá và hứa sẽ cho những người mãn công-tờ-ra được về quê quán... Một số yêu sách của chúng tôi như vậy là đã được thực hiện.
Đến đây cuộc đấu tranh tạm kết thúc. Cuộc đấu tranh này đã xiết chặt thêm hàng ngũ của anh em công nhân đồn điền Phú Riềng và rèn luyện thêm kinh nghiệm đấu tranh hợp pháp, bán hợp pháp và hoạt động bí mật cho những người còn lại.
Truyền thống đấu tranh còn tiếp tục được phát huy ở Phú Riềng. Đấu tranh thắng lợi đã tăng thêm lòng tin tưởng cho anh chị em. Thay vào chỗ một số đồng chí phụ trách đã bị giặc bắt, công nhân Phú Riềng lại bầu ra một ban lãnh đạo mới. Tới tháng 5 năm ấy, nghĩa là chỉ sau hơn ba tháng, Phú Riềng lại nổ tiếp một cuộc đấu tranh mới, không kém phần quy mô, quyết liệt so với cuộc đấu tranh đầu tiên hồi tháng 2.


NHỮNG HẠT GIỐNG ĐỎ CỦA PHÚ RIỀNG
Cuộc đấu tranh ở Phú Riềng nổ ra khi tiếng súng của khởi nghĩa Yên Bái vừa tắt, nhưng lại đúng vào thời điểm Đảng ta vừa thành lập. Điều này chứng tỏ Đảng ta là một đảng có truyền thống đấu tranh mạnh mẽ, ngay khi mới thành lập đã lãnh đạo được những cuộc đấu tranh lẫm liệt. Điều đó chứng tỏ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng Đông Dương nói chung, kể từ năm 1930, đã độc tôn trong tay giai cấp vô sản và chính đảng của nó. Thật thế, gần như đồng thời với Phú Riềng là những cuộc đấu tranh rầm rộ của công nhân, của nông dân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Biên Hoà, Sài Gòn v.v…
Tiếng vang của cuộc đấu tranh ở Phú Riềng rất lớn. Dư luận của mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp có những đánh giá khác nhau. Khi chúng tôi bị giam, tình cờ trong số giấy gói quà cáp của bà con gửi vào có vài tờ nhật báo. Nhờ đó, bọn tôi được biết dư luận chung về cuộc đời đấu tranh này. "Thần Chung", một tờ báo tiến bộ lúc bấy giờ, đã nói về cuộc bãi công Phú Riềng trong số ra ngày 10 tháng 2 năm 1930 dưới đầu đề: "Vụ dấy loạn ở Phú Riềng". Nội dung bài báo như sau:
"Có phải tại ảnh hưởng Cộng sản chăng?
800 cu-li trốn vào rừng, 100 người làm đầu bị bắt, còn bao nhiêu sẽ được gửi về xứ sở.
Dễ êm đâu! Máu khỏi đổ nhưng cái khổ cho ai kia cứ dồn dập. Anh em lao động tức mình phản kháng, cứ theo như lời ông chủ Sở Phú Riềng và lời các báo Tây thuật là tại bị chịu ảnh hưởng của Cộng sản. Nên chi, sau bọn cu-li đánh hai người lính mã-tà trọng thương rồi, bèn sai người thay mặt mình đến nói với ông chủ sở xin quyết:
- Một ngày làm việc tám giờ.
- Đuổi hai người cai Tây.
- Thả người cai bị bắt ra.
Cai này tên là Lựu 1 bị bắt về tội ăn trộm như trước đã nói. Ông chủ sở không có quyền gì thả ra đâu, vì vậy mà anh em lao động không chịu làm việc, đồng lòng trở về làng số 9 của mình treo hai cây cờ đỏ lên trại.
Cây cờ đỏ! Cái dấu hiệu khả nghi thay! Nên họ ra công đi khám xét. Bắt được một trăm người, họ nghi là người làm đầu đã cho xe hơi dẫn về Biên Hoà. Còn 800 cu-li ở làng số 9 đều bỏ sở trốn vào rừng hết. Trốn Tây gặp Mọi, quản bao đói khát, hùm heo. Họ nói rằng cái đói đuổi con chó săn ra khỏi rừng, có chắc như vậy chăng? Còn dân làng số 3 còn ba tháng nữa mãn tờ giao kèo đến xin về xứ sở.
Trong đám người tình nghi bị bắt trên kia có một người điều dưỡng2 coi bộ hiền từ lắm thế mảnh giấy nho nhỏ trên đầu có vẽ búa liềm tréo lại với nhau. Cứ như lời mấy người bị bắt khai, thì những giấy cổ động ấy do mấy tay lạ ở đâu đi xe hơi lên Phú Riềng mà rải. In kỹ lưỡng, viết bằng giọng Bắc Kỳ. Vì đó mà họ nói có cái ngón tay Cộng sản thọc vào chắc chắn rồi. Không sai chạy đi đâu được. Quả vậy chăng?
Hơn một trăm lính mã-tà, 10 viên sen-đầm Tây và các tay mật thám ở Thủ-tích, Thủ-dầu-một, bao nhiêu đó cũng đủ giữ an ninh trật tự trong sở và thị oai cho anh em lao động sợ.
Cái ngòi thuốc pháo nổ mấy hôm nay chẳng phải đột nhiên mà sanh ra đâu. Ông chủ sở nói thấy trong sở mình gần một tháng nay bọn làm công có hay hơn độ trước. Ông dù muốn ở tư thế nào cũng không tránh khỏi. Hai bên tư bổn và lao động xung đột với nhau.
Hiện bây giờ ở Phú Riềng được an ổn".
Đó là nguyên văn bài báo. Đây là luận điệu của một số anh em tiểu tư sản trí thức có xu hướng tiến bộ viết báo "Thần Chung". Mặc dù có nhiều điểm sai lạc, nhưng qua lời văn vẫn thấy rõ rệt:
- Vì bị áp bức bóc lột quá nên Phú Riềng phải đấu tranh.
- Mặc dù bọn đế quốc bắt hàng trăm người nhưng chúng vẫn phải thoả mãn một số yêu sách của anh em, trong đó có nguyện vọng được về quê quán. Như thế là cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn thắng lợi.
- Đảng đã khéo léo chuyển hướng đấu tranh nên âm mưu dùng “hình phạt đói”, buộc công nhân đi làm không thành công.
Còn bọn đế quốc thì ra sức xuyên tạc vụ này, vu cho đủ thứ: nào ăn cắp, ăn trộm, nào dấy loạn, làm giặc v.v... Trên thực tế, lần đầu tiên bọn đế quốc phải đối đầu với một lối đấu tranh mới - rất uyển chuyển - làm cho chúng lúng túng, đối phó bị động. Chúng bắt bừa hàng trăm người về giam ở Biên Hoà, làm cho tiếng vang của Phú Riềng càng lớn.
Trước đây, đề lao Biên Hoà chỉ giam tù thường phạm. Bọn cai tù đánh đập anh em thường phạm rất dữ. Chiếu nằm không có, cơm vôi vừa nồng vừa nhão ăn với cá mục. Đến khi chúng nhốt hơn trăm anh chị em bị bắt ở Phú Riềng và đối xử với điều kiện cũng như vậy. Đứng đầu bọn cai tù là một thằng cao lẳng ngẳng, mặt dài ngoẵng, đen xì. Thằng này rất ác và ti tiện hết chỗ nói. Chúng tôi gọi nó là thằng "Mõm ngựa". “Mõm ngựa” quen thói cũ, giở trò chửi mắng đánh đập bọn tôi. Nào ngờ, nó bị cả trăm người phản đối. Chúng tôi bỏ cơm, dùng chiến thuật hò la ầm ĩ. Có anh em đập nồi, đập ống bơ loảng xoảng. Tiếng huyên náo vang cả thị trấn Biên Hoà. Dân chúng thấy lạ kéo nhau đến xem. Vì vậy tên giám đốc đề lao phải vào tận nơi điều đình với chúng tôi. Tôi cãi lý với y đòi phải có cơm nóng, nước nóng. Chúng tôi đòi phải đối xử đúng chế độ với tù pô-li-tích[55]. Viên giám đốc thấy chúng tôi đàng hoàng, dũng cảm, khác hẳn với các hạng tù mà y vẫn gặp thì rất phục và ngạc nhiên. Sau đó, y cấm thằng “Mõm ngựa” không cho lai vãng đến khám pô-li-tích.
Anh em thường phạm rất nể phục. Họ xì xào với nhau: "Mấy ông công-pờ-lô[56] này nói đúng lắm. Thật đáng kính phục!". Sau này, chúng tôi làm gì họ cũng theo.
Vụ án Phú Riềng là vụ lớn xử hàng trăm người. Đặc biệt là một trong những vụ đầu tiên xử những người Cộng sản. Trước đây làm chính trị bị toà xử toàn là những nhà văn, nhân sỹ, trí thức. Đến bây giờ mới có "phu phen" làm công-pờ-lô. Vì thế, vụ Phú Riềng rất được chú ý. Bọn thống trị biết vậy, chúng âm mưu làm nhục bọn tôi.
Theo luật pháp của chúng thì khi chưa thành án, người bị bắt được mặc quần áo riêng của mình, không phải mặc quần áo số của tù. Nhưng anh em phu phen chúng tôi quần áo không có. Mỗi người chỉ có cái quần cụt và một manh áo rách, khi bị bắt, giằng nhau với lính, áo càng tả tơi. Vì vậy khi vào tù toàn ở trần. Gần đến ngày xử, bọn Tây có vứt vào một mớ quần áo rách. Chúng nghĩ rằng anh em ra toà với vẻ bề ngoài như vậy sẽ rất tiều tụy và chẳng còn ra cái tư thế gì nữa.
Chúng tôi đoán được thủ đoạn của bọn thống trị. Anh em bàn với nhau rằng: "Thế nào kỳ này ra tòa, dân chúng cũng đi xem rất đông. Ta phải làm thế nào để bà con mến phục". Chúng tôi thống nhất có quần áo thật chỉnh tề thì mới mặc, còn nếu không, có thế nào mặc thế ấy. Điều cốt nhất là anh em nhắc nhở nhau giữ cho thái độ đường hoàng, cứng cáp.
Đến ngày xử, hơn một trăm anh em chúng tôi xếp hàng tư, đi từ đề lao ra tòa. Trước mặt có lính dẫn đầu, sau lưng có lính đoạn hậu, hai bên có lính áp tải nhưng anh em tù đi rất mạnh bạo. Mỗi người chỉ mặc độc một cái quần cụt. Chúng tôi vừa đi vừa hát những bài ca học được ở Phú Riềng. Tiếng hát vang đường phố. Bà con hai bên vỉa hè nhìn rơi nước mắt. Tôi còn nhớ, có một cụ bà rất già đứng trên hè chắp tay vái chúng tôi, miệng mếu máo: “Chao ôi, các ngài làm việc vì nước, phải chịu khổ chịu cực quá thế này!”. Nhìn bà cụ già bày tỏ tình cảm, bọn tôi nao nao trong dạ. Quần chúng kính trọng thương xót mình như vậy thì phải làm thế nào để bà con khỏi thất vọng mới được. Nghĩ mà thấm thía rồi thấy mình hăng lên.
Ra đến tòa, tôi cãi văng đi. Viên chánh án bảo tôi:
- Các anh làm sai hợp đồng, bỏ việc không chịu làm. Như thế là làm rối trị an.
Tôi đáp:
- Chúng tôi làm rất đúng. Chính công ty đã làm sai. Họ đánh người, họ cho ăn đói. Họ giết người vô tội vạ. Chính họ mới là những người làm trái pháp luật.
Trong tòa có tiếng xì xào, tiếng đồng bào bàn tán với nhau.
Cuối cùng, bọn quan tòa tuyên án bừa đi, người năm năm, người ba năm tù. Anh em tôi phản đối ầm lên.
Trên đường từ tòa về khám, chúng tôi lại xếp hàng tư đi như tuần hành. Người hát, người hô khẩu hiệu. Khí thế rất hăng. Chẳng ai tỏ ra chút lo lắng về tù tội. Vì vậy mà đồng bào Biên Hòa càng thêm khâm phục, yêu mến. Họ đứng hai bên đường, chờ chúng tôi tuần hành từ tòa về đề lao Biên Hòa. Cuộc tuần hành của công nhân Phú Riềng có ảnh hưởng rất lớn.
Anh em công nhân Máy cưa Biên Hòa lúc ấy cũng đang chuẩn bị đình công. Vụ án của chúng tôi càng thúc đẩy anh em sớm nổ ra đấu tranh. Người lãnh đạo Máy cưa Biên Hòa lúc bấy giờ là anh Liên, sau gặp tôi ngoài Côn Đảo, có nói: “Nhờ có các anh thúc đẩy nên chúng tôi càng phấn đấu để đình công”. Anh Liên, khi Cách mạng thành công, làm Chủ tịch ở Huế và hy sinh trong kháng chiến. Các đồng chí Biên Hòa còn rải truyền đơn trong nhà máy để phản đối việc xét xử bất công với công nhân Phú Riềng.
Vụ án của chúng tôi được xử phúc thẩm tại Tòa đại hình Sài Gòn. Hôm xử án, đồng bào thành phố đi xem rất đông. Thấy chúng tôi vừa đi vừa hát, vừa hô lớn các khẩu hiệu, họ rất ngạc nhiên. Họ thắc mắc:
- Mặc quần xà lỏn thế kia mà làm chính trị được ư?
Đến lúc đối chứng ở tòa, bọn tôi tự cãi cho mình. Viên chánh án là người thành phố Pông-đi-sê-ri[57], một thành phố thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ. Y hỏi tôi:
- Các anh làm rối cuộc trị an, các anh có biết tội không?
- Tôi làm sao mà có tội? Các ông xem tôi mặc quần áo rách rưới, ăn uống đói khát như thế này đây! Công ty Mi-sơ-lanh không làm đúng hợp đồng, họ trả lương thiếu, họ đánh chúng tôi. Họ có tội chứ chúng tôi không có tội.
- Ờ được, về chuyện lương hướng, đánh đập, Công ty Mi-sơ-lanh sẽ sửa đổi, nhưng ai xui các anh nổi loạn ở Phú Riềng? - Viên chánh án vặn vẹo, dọa dẫm.
- Ai xui đâu? Chính nước Pháp xui chúng tôi! Bà Gian-đa[58] xui chúng tôi! Tôi xin hỏi ông, ông là người Ấn Độ, ông có muốn Ấn Độ độc lập không?
Câu hỏi chọc thẳng vào mặt viên chánh án làm cho y bị chạm nọc, mặt tím lại. Phiên tòa lặng đi. Chánh án lúng túng rút khăn lau mồ hôi, không nói một lời nào. Sau đó, bọn quan tòa rút vào phòng trong họp kín. Đến khi tuyên án, viên chánh án cũng lánh mặt.
Kỳ ấy, chúng kêu án hàng chục người. Tôi và một đồng chí bị án 5 năm đày ra Côn Lôn, ba người mang án hai năm tù ngồi, trong số này có đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng. Mạnh Hồng lúc ấy không nằm trong Ban chấp hành Nghiệp đoàn, cũng chưa được kết nạp vào chi bộ Đảng[59]. Tuy thế, bọn đế quốc rất căm anh vì chúng biết Mạnh Hồng đấu tranh khét tiếng và chính anh đã chỉ huy một số thanh niên Xích vệ đội vác gậy, đánh bọn lính mấy trận tơi bời. Trên chục người khác bị từ sáu tháng đến một năm tù ngồi.
Vụ án làm sôi nổi dư luận lúc bấy giờ. Bọn đế quốc thì gọi là vụ phiến loạn của cu-li đồn điền. Bọn bồi bút cũng hùa theo. Chúng đăng kết quả phiên tòa dưới những đầu đề nhằm bôi nhọ chúng tôi: Nào là "Phu đồn điền ở Phú Riềng làm loạn", nào là "Vụ reo rối trị an ở Phú Riềng".
Nhưng chúng không bịt nổi được dư luận. Bà con Sài Gòn đi dự phiên tòa rất đông. Họ kinh ngạc khi thấy bọn tôi từ tòa đi về đề lao một cách trật tự, hiên ngang. Chúng tôi vừa đi vừa hát bài "Cực quá rồi, các bạn thợ thuyền ơi". Hát xong lại hô vang các khẩu hiệu. Cả một đoàn người mình cởi trần, mặc quần xà lỏn, kéo dọc trên phố xá Sài Gòn với một thái độ đàng hoàng, mặt ngửng cao kiêu hãnh, không sợ sệt, khúm núm.
Bọn đế quốc muốn ghép cho chúng tôi tội làm loạn nhưng thái độ của chúng tôi, công việc đã làm của chúng tôi chứng tỏ chúng tôi làm chính trị. Sau đó, Báo "Thần Chung" có đăng một bài tường thuật về phiên tòa. Bài báo kết luận bằng câu: "Bây giờ đến người nghèo khổ làm chính trị!".
Sau đó, tôi bị đày đi Côn Lôn. Đây là những năm tháng tù đày đầu tiên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi. Nó còn là khóa học đầu tiên trong trường "Đại học cách mạng" . Ở Côn Lôn, tôi được gặp lại các anh Tống Văn Trân, Ngô Gia Tự - hai người thầy cách mạng của tôi.
Những anh em thành án cùng vụ với tôi bị đế quốc đưa đi đày ở Hà Tiên. Chúng bắt anh em làm khổ sai và cho ăn uống kham khổ. Anh em không chịu, đấu tranh với chúng rất hăng. Sau bọn đế quốc phải chuyển họ đi chỗ khác.
Duy chỉ có đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng năm ấy mới mười bảy tuổi. Bọn đế quốc đưa anh đi trại Ông Yễm, một trại chuyên giam những người vị thành niên (kiểu như trại trừng giới của Pháp ở Bắc Kỳ). Ở Ông Yễm, đế quốc cũng đang khai phá rừng trồng cao su. Chúng dùng ngay sức lao động của những tù nhân trong trại Ông Yễm để khai thác. Mạnh Hồng đã có sẵn kinh nghiệm đấu tranh. Anh vẫn giữ vững bầu máu đấu tranh sôi sục khi còn ở Phú Riềng. Vậy là Mạnh Hồng trở thành người chỉ huy đấu tranh ở Ông Yễm. Bọn đế quốc phải tách Hồng ra và đày anh đi Côn Lôn. Tôi còn nhớ như in buổi gặp nhau giữa tôi và Mạnh Hồng tại Côn Lôn vào năm 1932. Hai anh em mừng vui khôn xiết. Tôi và Mạnh Hồng nằm gác chân lên nhau, ôn lại kinh nghiệm đấu tranh ở Phú Riềng. Tình bạn giữa hai chúng tôi đã thân thiết lại càng thắm đượm hơn...
Ở Côn Đảo, tôi gặp Bác Tôn Đức Thắng, người Cộng sản lão thành, người thủy thủ đấu tranh lẫm liệt ở Hắc Hải. Bác Tôn lúc đó đang tuổi cường tráng. Đối với anh em ít tuổi như tôi, Bác coi như em. Bác thương và gánh vác cho những việc nặng nhọc khó khăn.
Tại đây, tôi gặp nhiều đồng chí và bạn chiến đấu thân thiết khác. Các đồng chí ta ngoài Côn Đảo rất chú ý đến cuộc đấu tranh của Phú Riềng. Tôi còn nhớ Bác Tôn, anh Lê Văn Lương và một số đồng chí phê bình bọn tôi biết tiến, biết thoái nhưng chưa biết thủ. Bài học này rất thấm thía cho anh em Phú Riềng. Biết tấn công, biết rút đúng lúc nhưng chưa biết tổ chức để giữ vững lực lượng. Càng ngẫm càng thấy đúng…
Riêng tôi, trong lòng vẫn băn khoăn không biết cuộc đấu tranh của chúng tôi kết quả đến đâu? Tôi cứ tự hỏi mình như vậy. Và thực tế đã giải đáp cho tôi điều đó. Cuối năm 1930, có tin ra Côn Đảo rằng số công nhân Bắc Kỳ vào Phú Riềng cùng một chuyến với tôi đã được trả về quê quán đúng như công-tơ-ra ký kết. Đồng thời, anh em công nhân cao su bên Dầu Tiếng đang nổ ra cuộc bãi công lớn.
Bác Tôn gọi tôi và nhủ:
- Đấy, kết quả Phú Riềng của các chú đấy.
Hai tin vui mừng đến đột ngột làm tôi và Nguyễn Mạnh Hồng vô cùng sung sướng. Hai anh em ôm lấy nhau, mừng rỡ.
Đúng thế, mặc dù một số đảng viên và cán bộ nghiệp đoàn bị bắt, nhưng nhìn lại, rõ ràng là cuộc đấu tranh của Phú Riềng đã không uổng. Bọn đế quốc đã phải nhượng bộ anh em chúng tôi khá nhiều yêu sách.
Phát huy truyền thống và rút kinh nghiệm từ cuộc đấu tranh đầu năm 1930, phong trào đấu tranh ở Phú Riềng từ đấy về sau vẫn là một phong trào khá. Những anh em được ươm trong lò đấu tranh của Phú Riềng, khi toả đi các nơi đã trở thành những cán bộ, đảng viên kiên cường. Hạt giống đỏ ở Phú Riềng quả là loại hạt giống rất tốt.
Còn tôi, nhớ lại lúc rời Tu viện Hoàng Nguyên, tôi chỉ là một thanh niên nông thôn yêu nước, canh cánh trong lòng nỗi nhục mất nước nhưng bế tắc chưa tìm được con đường phải đi. Chính lúc ấy, Đảng đã tìm đến tôi, đã giúp đỡ tôi thấy rõ con đường của mình. Đảng đã chỉ cho tôi vô sản hóa. Đảng đã dạy tôi lăn vào quần chúng công nhân. Vì vậy, tôi đã đến Phú Riềng.
Phú Riềng dưới thời đế quốc quả là một địa ngục trần gian. Nhưng có áp bức là có đấu tranh, càng áp bức mạnh, đấu tranh càng mạnh. Những người lao khổ ở Phú Riềng đã giật tung ách áp bức mà đứng dậy. Từ những cuộc đấu tranh lẻ tẻ tự phát lúc đầu tới khi có Đảng lãnh đạo, những cuộc đấu tranh ấy đã trở thành tự giác, có sức mạnh rất lớn, đã giành được những thắng lợi bước đầu.
Chính tôi đã được thử thách, rèn luyện trong những cuộc đấu tranh ấy. Từ chỗ ấu trĩ, non nớt, nhờ có Đảng rèn giũa, tôi đã lớn lên với rừng cao su Phú Riềng...
Sau Phú Riềng, tôi được Đảng đào tạo tại Côn Đảo, trở thành người có ích cho giai cấp, cho nhân dân.
Tiếp theo, trên bước đường đấu tranh của tôi, từ Hà Nam, Ninh Bình, Hà Đông, đến Việt Bắc, qua các đề lao Nam Định, Ninh Bình, Hỏa Lò v.v... trải biết bao nơi nhưng tôi luôn nhớ tới Phú Riềng, nơi có những cánh rừng cao su chuyển thành “khu vực đỏ” gắn với quá trình rèn luyện, đấu tranh để trở thành đảng viên Cộng sản của tôi.
 Hà Nội, 11-1964
H.A ghi

 Khi biên tập, chúng tôi đã sử dụng một số tư liệu trong “Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam” (Công đoàn cao su Việt Nam – Nhà xuất bản Lao Động – 2003). Xin trân trọng cảm ơn! (BBT).



CHÚ THÍCH:
[1] Hồi ký được NXB Lao Động xuất bản năm 1965, tái bản 1971 và Đại học Ô-hai-ơ, Mỹ (Ohio University) tái bản với tựa đề “THE RED EARTH”, năm 1985.
[2] Hồi ấy, tân thư gọi chung cho các loại sách bộ tiến bộ có nội dung dân chủ kiểu phương Tây của Lương Khải Siêu (Trung Quốc), Phan Bội Chu, Phan Chu Trinh, nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục… (Chú thích của người ghi).

[3] Một sào Bắc Bộ rộng 360m2.
[4] Nữ anh hùng dân tộc Pháp, sinh năm 1412, đứng lên kêu gọi nhân dân khởi nghĩa chống lại quân xâm lược Anh. Về sau bà bị bọn phản động bắt nộp cho giặc và bị chúng thiu chết.

[5] Cap Saint Jacques, nay là thành phố biển Vũng Tàu.
[6] Claude Chappe.
[7] Commandant Dorier.
[8] Captain – thuyền trưởng.
[9] Certificat.
[10] Tên khai sinh của tôi là Phạm Văn Phu.
[11] Surveillant - Giám thị.
[12] Contract – hợp đồng.
[13] Nơi đón tiếp người mới đến.
[14] Lán trại di.
[15] Compagnie des Terres Rouges.
[16] Mimot, Michelin, Tropic Tree.
[17] Bungalow - Biệt thự.
[18] Cách anh em gọi bọn xu-vây-dăng.
[19] Ý nói đến bảo hiểm tai nạn.
[20] Chantier – khu vực công trường.
[21] Mọi rợ – một từ khinh miệt để chỉ người dân tộc thiểu số.
[22] Năm 1964.
[23] Buro - Bàn giấy văn phòng.
[24] Triai.
[25] Valentin.
[26] Monte.
[27] Dần cho nó một trận!
[28] De Lamarre.
[29] Corve: làm vệ sinh, sửa đường quanh các lán trại.
[30] Alpha.
[31] “Su” (cao su) - cách anh em công nhân dùng cho dễ nói.
[32] Vasser.
[33] Anh em quen gọi văn phòng của chủ là “bàn giấy”.
[34] Le Bonne.
[35] Ngô Gia Tự (1908-1935), Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ lâm thời, năm 1930.
[36] Đêm 28-10-1929. Ngày này được chọn làm Ngày truyền thống Công nhân cao su Việt Nam.
[37] Humanité: Báo Nhân Đạo.
[38] Vaillant.
[39] Tiếng chửi rủa.
[40] Đồ d man!
[41] Lagrandire – có thời gian là đường Gia Long, nay là Lý Tử Trọng.
[42] Khổng Minh ba lần chọc tức Chu Du; Lưu Bị - Quan Vân Trường - Trương Phi kết nghĩa ở vườn đào; Lã Bố đùa cợt với Điêu Thuyền; Chuyện tình Phạm Lãi - Tây Thi…
[43] Năm 1964.
[44] Durandet.
[45] Barre.
[46] Soumagnac.
[47] Paris.
[48] Boudy.
[49] Bayard: máy bay vận tải cánh quạt.
[50] Marty.
[51] Vilmont.
[52] Krauheimer.
[53] Arnoux.
[54] Camion: Xe vận tải.
1 Thực ra Lựu là đồng chí Lự.
2 Người điều dưỡng này chính là đồng chí Trần Tử Bình (ch thích của người ghi)
[55] Politique - Tù chính trị.
[56] Nhà hoạt động xã hội bí mật. (Hội viên hội kín).
[57] Pondichry.
[58] Jeanne d' Arc – một nữ anh hùng dân tộc Pháp.
[59] Trang 52 cuốn “Công ty cao su Đồng Phú - Truyền thống xây dựng và phát triển 1927-1995” (Đảng uỷ và Giám đốc Cơng ty cao su Đồng Phú, 1996) có viết “Trong cuộc mít-tinh kỉ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga 1929 (7-11-1929), chi bộ đã kết nạp đồng chí Nguyễn Mạnh Hồng vào Đảng”. Tuy vậy khi biên tập, chúng tôi vẫn giữ nguyên so với bản gốc hồi ký “Phú Riềng Đỏ”.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.