Bìa 1 và bìa 4 của cuốn sách. |
Thân gửi: Đảng
ủy, chính quyền, nhân dân xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam và xã Tân
Phúc, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên cùng con cháu Thiếu tướng Trần Tử Bình
Trước hết, tôi xin gửi đến các đồng chí và bà con
lương, giáo xã nhà cùng con cháu đồng chí Trần Tử Bình lời chào thân ái!
Năm 2007, kỷ niệm 100 năm ngày sinh và 40 năm ngày mất
của Thiếu tướng Trần Tử Bình - người bạn chiến đấu thân thiết của tôi. Sinh ra
trong một gia đình công giáo toàn tòng, Anh Bình sớm giác ngộ cách mạng. Đầu
năm 1930, Anh đã cùng chi bộ Đồn điền cao su Phú Riềng làm nên một “Phú Riềng
đỏ” lịch sử. 15 năm sau, Anh lại tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và
một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Anh là một trong 9 cán bộ cao cấp được Hồ
Chủ tịch kí quyết định phong quân hàm Thiếu tướng lớp đầu tiên, rồi cùng công
tác với tôi trong Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh. Trong kháng chiến chống Pháp, Anh
từng làm công tác thanh tra, công tác đào tạo cán bộ; sau hòa bình lại làm công
tác sửa sai trong Cải cách ruộng đất. Trên cương vị nào Anh cũng đều hoàn thành
nhiệm vụ. Anh còn là Đại sứ của nước ta tại Trung Quốc suốt từ năm 1959 đến
1967, góp phần xây dựng quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt – Trung và tranh
thủ sự giúp đỡ hiệu quả nhất của bạn cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc, giải
phóng miền Nam. Thật tiếc Anh ra đi quá sớm!
Được biết nhân dịp này, con cháu của Anh cùng Đảng ủy,
chính quyền địa phương, nhân dân xã Tiêu Động, Bình Lục, Hà Nam và xã Tân Phúc,
Ân Thi, Hưng Yên đầu tư tiền của, công sức xây dựng Nhà tưởng niệm Thiếu tướng Trần
Tử Bình và Nhà văn hóa thôn Tiêu Thượng
cùng Trường Mầm non Trần Tử Bình – thôn Phúc Tá. Đây là những việc làm
đầy ý nghĩa nhằm tôn vinh người chiến sĩ cách mạng đã hy sinh cả cuộc đời cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời
góp phần giáo dục truyền thống cách mạng
cho thế hệ hôm nay và mai sau. Tôi đánh giá cao những việc làm này.
Mong các đồng chí và bà con lương, giáo quê hương cùng
con cháu học tập tấm gương sáng của Anh, xây dựng địa phương ta thật giàu, đẹp.
Chúc các đồng chí và bà con mạnh khỏe, hạnh phúc và
thành đạt!
Hà Nội, ngày
4 tháng 5 năm 2007
Đại tướng Võ
Nguyên Giáp
Lời giới
thiệu
Cuốn sách các bạn đang đọc là một truyện ký viết về một
nhân vật của lịch sử, nếu còn sống thì đã qua tuổi 100. Đó là Trần Tử Bình
(1907 - 1967).
Tựa sách “Trọn đời vì nghĩa cả” là gắn kết
hai cái mốc lớn cũng là hai đóng góp chính của Trần Tử Bình đối với lịch sử công
cuộc giải phóng dân tộc. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo theo đạo Thiên
chúa ở Hà Nam, Phê-rô Phạm Văn Phu (tên khai sinh của ông) đã tiếp nhận những tác
động của phong trào yêu nước ngay từ những ngày ngồi trên ghế Trường Dòng của một
làng quê “công giáo toàn tòng”. Cuộc vận động đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và để
tang cụ Phan Châu Trinh đã thức tỉnh thế hệ trẻ đương thời.
Vừa chập chững tìm đường hoạt động, Trần Tử Bình đã được
gặp nhà cách mạng Tống Văn Trân với lời khuyên nhủ: “Muốn làm cách mạng phải “vô sản hoá”!”. Vì thế, mới chớm tuổi hai
mươi ông đã bị nhà thờ “rút phép thông công” và bị đuổi học. Trần Tử Bình đã ký
“công-tơ-ra” vào làm phu đồn điền cao su Phú Riềng (Nam Bộ).
Và chính từ đây, cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền
Phú Riềng đã trở thành một sự kiện đậm nét trong lịch sử phong trào giải phóng
dân tộc nói chung, lịch sử phong trào cách mạng của giai cấp công nhân nói
riêng. Ngay tại “địa ngục trần gian” này, tổ chức chi bộ cộng sản đầu tiên được
thành lập và Trần Tử Bình trở thành một trong những hạt nhân lãnh đạo. Cuộc đấu
tranh thắng lợi của 5.000 phu đồn điền đầu năm 1930 đã làm nên một “Phú Riềng đỏ”
lịch sử.
Cũng kể từ đây, Trần Tử Bình bước vào cuộc đấu tranh một
mất một còn với chủ nghĩa thực dân mà khởi đầu là 5 năm tù đày ngoài Côn Đảo và
tiếp đó là những trách nhiệm ngày càng cao trong tổ chức cách mạng trên con đường
vận động giành độc lập dân tộc. Ở cương vị xứ uỷ viên Bắc Kỳ, năm 1943, Trần Tử Bình một lần nữa bị thực dân
Pháp bắt giam. Nhưng vào thời điểm cuộc đảo
chính của Nhật hất cẳng Pháp (9-3-1945), ông cùng nhiều đồng chí trong Nhà tù
Hoả Lò (Hà Nội) đã thực hiện thành công cụôc vượt ngục lịch sử trở về với đội
ngũ cách mạng.
Sau khi tham gia xây dựng Chiến khu Hoà - Ninh - Thanh, Trần Tử Bình được chỉ định
vào Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ và trên cương vị ấy ông đã cùng các đồng chí của mình
thực hiện thành công cuộc Tổng khởi nghĩa lịch sử giành chính quyền ở Thủ đô Hà
Nội.
Sau Cách mạng thành công, Trần Tử Bình đảm nhiệm nhiều
cương vị khác nhau trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ông là một trong những quân nhân đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí
Minh kí sắc lệnh phong quân hàm cấp tướng. Đảm nhận công tác thanh tra trong và
ngoài quân đội và 8 năm cuối đời ông chuyển sang lĩnh vực ngoại giao trên cương
vị Đại sứ Việt Nam
tại Trung Quốc.
Những đóng góp của Trần Tử Bình đã được Đảng, Nhà nước
ghi nhận bằng tấm Huân chương Sao Vàng và tên của ông được đặt cho những đường
phố ở Hà Nội và một số địa phương. Sau những hình thức tưởng niệm của Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam cùng với tác phẩm “Phú Riềng đỏ”, nhiều bài viết về ông của
các nhà nghiên cứu sử học, các nhân chứng lịch sử và người thân... đã được công
bố trong cuốn “Trần Tử Bình - Từ Phú Riềng đỏ tới mùa Thu Hà Nội…” (NXB Lao
động, 2006).
Và với ngòi bút của nhà văn Hoàng Giang Phú, tập truyện
ký này sẽ mang lại cho bạn đọc một cách
tiếp cận sinh động về một nhân vật của lịch sử cũng là một tấm gương của tiền
nhân cho hậu thế gắn với nhận thức về một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc.
Dương Trung Quốc
Những năm tháng ở quê nhà
Mùa đông năm 1926
Cậu thanh niên công giáo xứ Tiêu Động
Phạm Văn Phu đang theo học đến năm thứ ba thì bị đuổi khỏi Trường dòng La-tinh
Hoàng Nguyên. Tin sét đánh ấy làm cha mẹ cậu vô cùng buồn phiền, thất vọng. Bởi
ở cái làng công giáo toàn tòng này, cậu trở thành kẻ "vô đạo". Bị
đuổi khỏi Chủng viện, bị đuổi khỏi nhà thờ, bị rút phép thông công vì đã làm
"trái ý Chúa", rồi đây cậu sẽ
sống ra sao giữa sự nguyền rủa và khinh miệt của dân xứ đạo?
Làng Đồng
Chuối quê cậu nằm giữa vùng chiêm trũng Hà Nam, suốt bốn mùa đồng trắng nước
trong. Dân làng lầm lũi quanh năm trên mảnh ruộng chiêm khê, mùa thối. Mùa về,
thóc chẳng đủ nộp tô. Cứ sau vụ gặt, nhà nhà lại đóng cửa rồi bị gậy dắt díu
nhau đi tha phương cầu thực khắp xứ người.
Gia đình cậu
Phu vào loại nghèo nhất làng. Người cha làm nghề đi gắp phân đem bán cho những
nhà có ruộng. Quanh năm chỉ mình trần khố vặn, quảy trên vai đôi quang giành,
trong tay chiếc cặp gắp phân bằng cật tre, ông lang thang khắp các vùng quê lân
cận cho đến tối mịt mới về nhà. Vậy mà chẳng đủ nuôi một miệng ăn. Trước gia
cảnh bấn bách, đói nghèo, ông đành đăng lính
sang Pháp để kiếm đồng lương trang
trải nợ nần.
Lên chín tuổi
cậu Phu đã đi ở chăn trâu cho một phú hộ trong làng để kiếm miếng cơm gạo hẩm
cùng với cánh lực điền. Cứ mỗi lần dắt trâu ra đồng, cậu phải đi qua một lớp
học đầu thôn. Nhìn lũ trẻ cùng trang lứa đang cao giọng đọc bài theo nhịp thước
gõ của thầy giáo làng, lòng cậu thấy xốn xang thèm khát được đi học như chúng
bạn. Có những lần cậu nối dây thừng trâu cho dài, đóng một cái cọc cho chắc
giữa bãi cỏ, đem trâu buộc vào cọc rồi mon men ngó vào lớp học, chăm chú xem
thầy giảng bài. Đôi lúc thuận miệng, cậu nhẩm theo giọng đọc cùng chúng bạn
trong lớp. Có lúc cậu ngồi dưới mái hiên, cầm mẩu gạch non hí hoáy vẽ chữ lên
thềm.
Năm sau, có
tiền của cha từ bên Pháp gửi về, mẹ liền sửa một cái lễ xin thầy nhận cho cậu
vào học. Vậy là cứ sáng tới lớp, chiều lại đeo bên hông cái giỏ ra đồng mò cua,
bắt ốc đỡ mẹ. Do thông minh lại chăm học nên chỉ sau ba tháng, cậu Phu đã viết
được thư gửi cho cha. Ông thầy là một phú hộ, chuyên cho vay nặng lãi. Ông rất
dữ đòn với học trò nhưng lại tỏ ra ưu ái với cậu Phu. Do cậu thông minh lanh
lợi, đã biết chữ quốc ngữ nên ông giáo hay đưa cậu đi theo hầu mỗi khi đi sang
làng bên để khoe.
Năm 1918,
chiến tranh thế giới kết thúc, người cha từ bên Pháp trở về. Gia đình lại lâm
vào cảnh túng thiếu. Để bớt miệng ăn cho nhà, cha cho Phu đi ở cho nhà thờ.
Ban đầu, cậu
Phu đi ở cho linh mục Huấn, trông coi xứ Trung Hiếu (thuộc Sở Kiện, Hà Nam). Linh mục
Huấn từng đỗ cử nhân Thần học tại Tòa Thánh bên La Mã. Tính ông cương trực,
nóng tính nhưng rất thương người nghèo. Ông đã từng thẳng thắn đấu tranh với
Tòa Thánh La Mã về sự đối xử không công bằng giữa linh mục Pháp và linh mục An
Nam. Chính vì lẽ đó nên mặc dù ông đỗ đạt cao, nhưng luôn bị đổi khắp nơi. Nay
xứ Sở Kiện, mai lên Châu Sơn, Đầm Đùn... Dù ở đâu ông cùng lấy cái Đức cái Nhân
làm trọng. Ngày về Kẻ Non, Thanh Liêm, một lần có một con chiên đang giữa trưa
vào chặt trộm tre nhà thờ, Cha Huấn biết, cho người gọi vào. Điềm tĩnh Cha hỏi:
- Con chặt tre
làm gì?
- Dạ, thưa
Cha - người kia lúng túng - Nhà con túng quá, con xin trộm Cha cây tre về sửa
nhà ạ.
- Vậy đã chặt
đủ làm chưa?
- Dạ, thưa
Cha - Người ấy đưa tay lên tai gãi gãi.
- Nếu chưa đủ
thì chặt thêm cho đủ dùng. Nhưng từ nay con không nên làm như vậy. Quả túng
thiếu thì vào hỏi Cha, Cha cho đàng hoàng. Lời Chúa đã răn con như thế nào?
Người ấy lặng
lẽ cúi đầu lạy Cha.
Với cậu Phu
vốn thông minh, lanh lợi nhưng gia cảnh lại quá nghèo, nên cha Huấn rất thương.
Ông thường mang cậu theo hầu trong các chuyến đi Hà Nội, Nam
Định, Sơn Tây... nên tầm nhìn của cậu Phu càng được mở rộng.
Năm 1922, cậu
Phu được cha Huấn giới thiệu xuống xứ Vĩnh Trị, Nam Định học hai năm chữ
La-tinh, đồng thời hầu linh mục Phổ, một thầy tu chuyên thu địa tô trên ruộng
của Nhà thờ và cho vay nặng lãi. Ông này nghiện rượu, tính kiêu căng nhưng rất
ghét các linh mục người Pháp. Tại xứ Vĩnh Trị, cậu Phu được đọc những cuốn sách
về cụ Đề Thám, về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, về quân Cờ đen đánh nhau với người
Tây dương.
Cậu Phu được
giáo xứ Vĩnh Trị giới thiệu vào học tại Chủng viện La-tinh Hoàng Nguyên thuộc
giáo phận Hà Đông. Cha mẹ cậu vui lắm, rất vinh hạnh vì con trai được "Bề
trên ưu ái", được khoác áo thầy tu rồi có thể thành linh mục. Được như vậy
sẽ là niềm tin tự hào cho cả làng, cả họ, sẽ giúp được cả nhà.
Theo học đã
liền ba năm, ấy thế mà bỗng nhiên cậu bị đuổi!? Thử hỏi người mẹ nghèo, đặt bao
kỳ vọng vào đứa con trai, giờ sẽ khổ đau biết chừng nào! Tuy thương mẹ vô cùng,
nhưng việc đuổi học đối với cậu không chút buồn phiền, không hề luyến tiếc. Mẹ
ơi, mẹ đâu có hiểu được!
... Ấy là
những tháng năm cậu Phu lăn lóc hết các nhà thờ ở bốn tỉnh Hà Nam, Ninh
Bình, Nam
Định, Hà Đông. Ở đâu cậu cũng chỉ là kẻ chăn trâu, cắt cỏ, trồng rau, xay lúa,
giã gạo. Tối đến, được học mươi câu Kinh bổn. Sáng dậy thật sớm lo việc đèn
nến, bưng khay, phụ lễ giúp cha. Ngày đêm cậu quần quật để kiếm miếng cơm ăn.
Cậu nhớ lại
cái hồi ở nhà xứ Trung Hiếu có thầy già Sân là quản gia, giữ tất cả tay hòm
chìa khóa. Ông ta đọc kinh rất giỏi, cứ lầu lầu không một chút ngắc ngứ, rượu
ông cũng rất giỏi. Tối tối, ông ta uống một mình hết bình nọ đến bình kia.
Chuyện gái ông cũng rất tài. Nhà xứ giao cho ông việc trông coi thợ cấy, cắt
cỏ, làm việc cho nhà xứ. Ông thuê ngày, ban đêm gạ gẫm ngủ bậy bạ. Ông ta đánh
các cậu như két. Ngủ gật, đòn; không thuộc bài, đòn. Làm chậm trễ, đòn. Dường
như ông ta nghiện đánh các cậu. Có lỗi cũng đòn mà không có lỗi cũng đòn. Đánh
xong ông ta bắt các cậu ăn cơm muối, ngủ đất. Cảnh sống của những lớp người
trong nhà xứ Trung Hiếu cách biệt rõ rệt. Nhờ tiền xin lễ của cả xứ (gồm sáu họ
đạo từ Ao Cá, Ao Cách, đến Kẽm Trống, Sở Kiện…), nhờ tô tức của đồng bào nhận
ruộng rẽ, nhờ tiền chạy kiện... nên đời sống ông rất cao. Cụ đạo ngày cơm ba
bữa. Bữa nào cũng chim hầm, cá rán, gà quay... một bàn đầy ụ. Còn các cậu chỉ
có cơm độn ngô mọt với rau muống tứ thời. Mà việc học có đem lại chút hy vọng
gì. Nếu không lên nổi thì suốt đời làm thầy già với ngày hai bữa cơm suông, tối
manh chiếu đắp, một năm được cấp hai bộ quần áo vải thô. Sống âm thầm heo hút,
khi ốm đau chẳng có người chăm sóc. Cậu Phu thấy buồn chán, nhiều lần muốn bỏ
ra về. Nhưng về nhà thì lại phải chịu cảnh đói rách.
Đến khi được
vào học ở Chủng viện Hoàng Nguyên thì lại gặp một cố đạo người Ca-na-đa lấy tên
Việt là Quý. Cố Quý sống như một ông vua con. Phòng ốc huy hoàng nhung lụa. Kẻ
hầu người hạ vào ra tấp nập. Bữa cơm có đủ sơn hào hải vị đầy bàn, ăn không
xuể. Và đêm đêm ông ta không có đàn bà thì không ngủ nổi. Ấy thế mà Cố Quý đứng
làm lễ nom nghiêm trang lạ thường. Sau lưng ông, đèn nến sáng choang. Cố Quý
cao lớn đường bệ, ông sang sảng cao giọng:
- Nào là bình
đẳng bác ái…
- Nào là
thương người như thể thương thân…
Trong khi ấy,
học trò Chủng viện quanh năm ăn uống kham khổ. Mỗi bữa chỉ một đĩa rau muống già
chấm nước mắm thối. Cơm lại độn hai phần ngô, một phần gạo hẩm. Thịt cá hiếm
như vàng.
Còn việc sách
vở? Một lần cậu Phu đọc một cuốn sách "Người ta chết rồi đi đâu?",
sách dẫn toàn những chuyện kinh dị. Nào là ma quỷ, hỏa ngục, gông xiềng. Nào là
nóng đến chết khát mà không bao giờ được uống. Đúng là loại sách không làm
người ta tin ở Chúa, mà chỉ sợ Chúa phạt, Chúa trị. Cậu Phu không thể tin ở cái
kiểu sách vở, kiểu học hành như thế.
Nhân một
chuyến đi Hà Nội, cậu Phu được đọc một số sách "Tân thư", thuộc loại
sách cấm. Cậu thích thú say mê đọc những cuốn viết về các nhà cách mạng Tàu
như: Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vy... Các vị trên dám nói đến việc xây dựng đất
nước Trung Hoa ngàn năm phong kiến thành một nước dân chủ. Chịu ảnh hưởng của
các nhà cách mạng Trung Hoa, ở nước ta có các nhà chí sĩ yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, các ông dám đứng lên tranh đấu mưu cầu đổi thay đất nước.
Những cuốn sách trên được cậu Phu mang về rồi bí mật truyền tay nhau đọc trong
giáo sinh.
Vào dịp lễ
Giáng sinh năm ấy, các linh mục người Pháp và phương Tây tại trường đón lễ và
mở tiệc linh đình. Trong khi các giáo sinh người Việt phải ăn uống khổ sở. Cậu
Phu liền vận động hai trăm giáo sinh bãi khóa, đòi đối xử công bằng. Cuộc bãi
khóa giành được thắng lợi bước đầu, cuộc sống của các giáo sinh được cải thiện.
Biết giáo
sinh trong Chủng viện đã giảm niềm tin nơi Thánh đường, lại nhen nhóm tư tưởng
chống đối, Cố Quý tìm cách ngăn chặn và xúc phạm họ.
Một lần ông
ta lớn tiếng riếc móc: "Người An Nam lười", "Người An Nam
dốt", "Người An Nam hay ăn cắp". Cậu Phu uất lắm. Đứng lên trước
nhiều giáo sinh, cậu vặn lại Cố Quý: "Đức Chúa Trời dạy rằng: Mọi người
sinh ra trên đời, không phân biệt giàu, nghèo, tất cả đều bình đẳng. Vì vậy khi
Cha nói xấu người Việt Nam
là nói sai ý Chúa". Cố Quý tức lắm, luôn để ý tìm cách trừng trị lớp giáo
sinh cứng đầu.
Năm 1926,
trong nước đang có phong trào rầm rộ, đấu tranh với thực dân Pháp đòi thả Cụ
Phan Bội Châu, một nhà ái quốc chân chính, ghét Pháp. Cụ khởi xướng phong trào
Đông Du. Cụ khuyến khích thanh niên ta xuất dương ra nước ngoài học tập để tìm
đường cứu nước. Cụ bị bắt ở tô giới Pháp ở bên Tàu rồi đưa về nước. Chúng đưa
Cụ ra tòa, khép tội xử tử. Tin dữ này lập tức truyền khắp trong Nam
ngoài Bắc. Nhân dân cả nước nổi dậy làn sóng đấu tranh, buộc bọn Pháp phải xử công khai ở Huế.
Phong trào
đấu tranh đã ảnh hưởng lớn lớp học sinh trong Chủng viện. Cố Quý tỏ thái độ
giận dữ. Ông ta kín đáo dò xét học trò, để ý đến những người xưa nay bướng bỉnh
không nghe lời. Trong số đó có cậu Phu, một học trò đã không chăm chỉ cho lắm
mà lại tập gậy gộc.
Lại một lần
đi Hà Nội, cậu Phu được người ta cho đọc, được nghe người ta kể về chuyện ông
Đề Thám, cụ Phan Đình Phùng, ông Đinh Công Tráng nổi lên chống Pháp và những
tướng lĩnh tài giỏi dưới quyền các ông quyết xông pha trận mạc. Cậu Phu tỏ ý
nung nấu ý chí như họ đặng mai ngày giúp nước. Rồi những ước mơ của thanh niên
là nghe Phan Bội Châu ra nước ngoài học tập. Nào là Trường Võ bị quân quan học
hiệu Nhật, Trường Quân sự Hoàng Phố, Thiên Tân... như đang thôi thúc cậu.
Thế là cứ đêm
trăng, cậu Phu rủ mấy người bạn cùng chí hướng ra sân sau Chủng viện tập võ,
tập gậy, tập côn quyền... Dĩ nhiên Cố Quý đi rình nhưng ông ta vẫn không cấm
nổi. Bởi họ chỉ tập thể thao cho thân thể cường tráng. Hắn đành ghi tên Phu vào
sổ đen để chờ dịp trị tội.
Tới một hôm, Chủng
viện Hoàng Nguyên nhận được tin cụ Phan Chu Trinh mất. Cụ là người viết thư cho
vua Khải Định kể những lời phản quốc của ông ta khi ông sang dự đấu xảo bên
Pháp. Cụ đã từ chức để được đi nước ngoài học hỏi cái lạ, cái hay đem về giúp
nước. Nhận được tin đau buồn này, cậu Phu bỏ trường đi Nam Định dự
truy điệu cụ Phan Tây Hồ. Đến nơi, cậu thấy học sinh, công nhân, bà con hàng
phố đều để tang. Tại sân vận động tổ chức làm lễ lớn. Có hàng nghìn người mang
câu đối đến kính viếng nhà chí sĩ.
Sau khi dự
buổi truy điệu cụ Phan ở Thành Nam,
cậu Phu trở lại Trường dòng Hoàng Nguyên vận động tổ chức để tang Cụ Phan Chu
Trinh.
Hơn hai trăm
anh em tập trung ở sân Chủng viện. Người nào cũng mang băng tang đen trên mũ
hoặc cánh tay. Cố Quý cấm nhưng không được. Ông ta hầm hầm bước lên thềm, chỉ
xuống đám học trò rồi gầm lên:
- Người An
Nam kém văn minh. Người An Nam
ngu dốt, vô ơn, không biết nghe lời người nuôi dạy mình.
Cậu Phu bình
tĩnh bước lên phía trước, nói lại:
- Thưa cha,
chúng con nghe cha dạy: ai cũng là con của Chúa. Thế mà cha cứ rủa dân An Nam
ngu. Người An Nam dốt, nhưng họ làm ra lúa gạo nuôi sống người ta. Cha cũng vẫn
ăn lúa gạo ấy. Chửi mắng thế chẳng lẽ cũng là ngu dốt, vô ơn hay sao?
Cố Quý vừa
giận vừa ngượng tái người. Ông ta bỏ về ngay. Ba ngày sau, cậu Phu bị đuổi khỏi
Chủng viện Hoàng Nguyên.
Tất cả những
điều mục kích ở nhà thờ Trung Hiếu, Sở Kiện (Hà Nam), nhà dòng Châu Sơn (Nho Quan),
nhà thờ Hoàng Nguyên (Hà Đông)... đã khiến cho cậu Phu hết tin tưởng sự công
bằng trong giáo lý. Vì thế, bước ra khỏi cổng trường Hoàng Nguyên, cậu không
một chút buồn phiền, thất vọng.
Nhưng ra khỏi
cổng trường Hoàng Nguyên, quả thật, cậu Phu đang bỡ ngỡ giữa ngã ba đường. Về
nhà thì nghèo mà có muốn về cũng không được. Họ hàng, làng xóm cha mẹ sẽ không
để cậu yên. Đi đâu bây giờ đây? Sống bằng cách nào bây giờ đây?... Mấy câu hỏi
cứ quay cuồng trong đầu óc cậu. Cuối cùng, cậu đành về Vĩnh Trị, xin vào nhà xứ
với cụ Phổ.
Cụ Phổ là
người Việt. Do cách đối xử khác biệt giữa cố Tây và cố ta nên cụ Phổ bất mãn,
chửi Tây luôn mồm. Ở Vĩnh Trị, cụ Phổ cho cậu dạy Kinh để kiếm sống, mặc dù
những bài Kinh đối với cậu không còn gì hấp dẫn. Thế rồi tình cờ cậu tìm được
người bạn là hương sư ở Vĩnh Trị. Anh hương sư này có nhiều sách báo mới,
thường cho cậu Phu mượn về đọc. Qua sách báo, cậu vỡ ra nhiều điều thế thái
nhân tình.
Một hôm, anh
hương sư tâm sự với cậu về đời sống của đồng bào Vĩnh Trị. Đó là một vùng quê
nghèo xơ xác. Được dịp, cậu Phu cũng bộc bạch những nỗi niềm riêng của cậu.
Những lời tâm
sự của cậu, được anh hương sư Vĩnh Trị nói lại với một người. Người này đã vạch
ra cho cậu một hướng đi. Đó là thầy giáo Tống Văn Trân.
Vào một buổi
trưa tháng 5 năm 1927, trời nắng chang chang, cậu Phu đi trên đường đê đến một
làng dạy Kinh. Cậu âm thầm nghĩ về cảnh ngộ của mình. Từ đằng xa thấy một người
đi xe đạp ngược chiều về phía cậu. Người đó mặc áo dài trắng, đội mũ trắng, đi giày
ba ta. Đến gần, người ấy xuống xe và chào cậu trước. Người ấy chính là anh Tống
Văn Trân. Anh Trân có đôi mắt sáng long lanh, người cao dỏng, đầu anh hói, hàm
răng hơi vổ. Trán anh rộng và giô, vừa bướng bỉnh vừa kiên quyết. Anh có giọng
nói choang choang, vui cởi mở. Đối với cậu Phu, anh thật có vẻ anh hùng hảo
hán. Anh tự giới thiệu với cậu: "Nghe nói đến ông, tôi muốn tìm gặp nói
chuyện cho vui". Thế là hai người
đi bên nhau trên đê, dọc theo con sông Vĩnh Trị. Anh Trân hỏi cậu Phu:
"Thế bây giờ ông sống thế nào?". Cậu Phu kể hết về sự bế tắc chưa có
hướng đi với anh. Hôm ấy, anh Trân nói tới hội kín, rồi nói tới Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh. Cậu Phu thấy rất hợp với lòng khát khao tìm hiểu con đường cứu
nước của mình.
Sau buổi tâm
sự, anh Trân chia tay và hẹn cậu Phu lại nhà riêng. Đêm ấy, cậu Phu thao thức
trắng đêm suy nghĩ, muốn được gặp lại lần nữa để nghe anh nói chuyện.
Rất đúng hẹn,
cậu lại gặp anh Trân ở một làng không xa. Lần này, anh Trân kể cho cậu Phu nghe
nhiều điều về một nước xa xôi mà ở đấy, công nhân, nông dân làm cách mạng, cướp
chính quyền rồi tự mình làm chủ vận mệnh của mình. Đó là Liên bang Xô viết. Anh
Trân cho cậu Phu biết: Anh là hội viên của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí Hội. Anh khuyên cậu gắng sức học hỏi rồi sẽ được gia nhập làm hội viên.
Cậu Phu ngỏ ý
muốn được xuất dương. Anh Trân đáp:
- Đi Nam Kỳ
thì dễ xuất dương hơn. Nhưng xuất dương cũng là để cứu nước, để làm cách mạng.
Còn muốn làm cách mạng đánh đổ Tây thì phải dựa vào công nhân, nông dân trong
nước. Muốn giành được độc lập dân tộc thì phải đánh đổ đế quốc.
Anh Trân lại
khuyên:
- Muốn được
công nhân tin cậy để cùng nhau làm cách mạng thì phải công nhân hóa.
Cậu Phu bỡ
ngỡ hỏi:
- Công nhân
hóa là thế nào?
Anh Trân giảng giải:
- Phải lăn
lộn vào những nơi có công nhân, như: bến tàu, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cao su.
Của cái trên đời này do hai bàn tay họ làm ra cả. Họ sẽ làm chủ vận mệnh nhân
loại. Phải lăn vào đời sống với họ, vận động và học tập họ để cùng nhau làm
cách mạng thì mới thành công được.
Hai lần gặp
gỡ anh Trân chỉ trong vài giờ đồng hồ, nhưng đã gỡ nút rối hàng năm trời mà cậu
không tìm cách gỡ nổi. Cậu quyết làm theo lời anh.
* *
*
Quăng thân vào gió bụi
Tháng 6 năm 1927
Đế quốc Pháp
đang ra sức bóc lột dân ta với kế hoạch khai thác Đông Dương lần thứ hai một
cách quy mô. Nhà máy, đồn điền mọc lên rất nhiều. Các công trình xây dựng đường
sá, cầu cống được mở mang nhanh chóng. Khắp các ngả đường, quán chợ dán la liệt
những tờ thông báo mộ phu đi Tân Thế giới, đi Nam Kỳ làm phu đồn điền.
Mộ lấy không
đủ, thực dân Pháp còn tung bọn cai thầu của ta đi khắp nơi rủ rê, dỗ dành những
người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ mất ruộng, đang thất cơ lỡ vận. Bọn thầu
khoán đua nhau nói rồng phượng cho “cuộc sống thần tiên” ở các đồn điền cao su.
Cậu Phu không
bị những lời đường mật ấy đánh lừa. Cậu biết đi là sẽ rất khổ sở, nguy hiểm,
thậm chí có thể đi mà chưa biết có ngày về, nhưng nếu ở lại, mình cũng chết. Vô
nghề nghiệp, vô gia cư, một thước đất cắm dùi không có, nếu không tìm con đường
sống, con đường cách mạng thì cũng chẳng có con đường nào khác. Hơn nữa con đường
của cậu đã vạch rồi. Có vào đấy, cậu mới thực hiện được ý định "công nhân
hóa" để vận động cách mạng.
Cùng hàng
ngàn đồng bào các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, cậu Phu ghi tên vào sổ mộ
phu đi làm ở đồn điền cao su Nam Kỳ. Thế là bắt đầu một quãng đời làm cho cậu
hiểu thế nào là cách mạng.
Hàng trăm
người phu mới mộ tập trung sống chen chúc trong những lán tạm tại Hạ Lý, Hải
Phòng. Họ là những nông dân nghèo ở các tỉnh Hà Nam,
Nam
Đinh, Ninh Bình. Ruộng một tấc không có, tiền một đồng kẽm cũng không, cùng đường
phải đem nhau đi phu cao su, chứ chẳng mấy ai mắc những lời dụ dỗ của bọn chủ
mộ phu ấy.
Có rời quê
mới biết lòng nhau. Bà con nông dân ta xưa nay mấy khi rời khỏi lũy tre làng.
Thường trọn đời sống lầm lũi cuốc mướn cấy thuê, trên đồng đất quê mình. Có bao
giờ được rảnh rang để nghĩ chuyện đó đây... Ấy thế mà vừa rời làng xóm quê
hương, họ đã quần tụ bao bọc lấy nhau. Có một điều gì rất mãnh liệt hút họ vào
một khối.
Trong khi chờ
tàu ở Hạ Lý, bọn chủ mộ phu phân anh em ở mỗi tỉnh ở vào một khu. Cậu Phu ở
chung với anh em Hà Nam.
Là người có chữ nghĩa, cậu viết thư từ hộ cho anh em, để họ gửi về cho người
thân vài hàng tâm sự trước khi lên đường nên anh em rất mến cậu.
Rồi sự việc
đầu tiên xảy ra ở đất Cảng.
Theo hợp
đồng, anh em phu mộ phải được ăn uống với mức mỗi bữa hai xu. Nhưng chủ thầu
chỉ chi có một xu hai. Phải ăn thứ gạo mủn, cơm hôi như cứt gián, vón cục. Cá
khô mục có cả giòi, muối trạt ra mà mùi vẫn khắm lặm. Anh em mấy tỉnh nhao nhao
phẫn nộ.
Bà con nông
thôn vốn tính tình chất phác, chữ nghĩa chẳng biết, lại cả tin. Chúng đã lừa họ
điểm chỉ vào hợp đồng và bảo rằng phải chụp hình để trình Nhà nước, sau này lỡ có
xảy ra chuyện gì, Chính phủ còn bênh vực. Té ra sau mới biết đó chính là một tờ
hợp đồng in sẵn. Cái người bị lừa ấy không bao giờ biết mình đã bán đứt tính
mạng và tự do của mình cho chủ tư bản.
Những điều ký
trong hợp đồng đã chẳng biết thì tất nhiên những khoản "dặn miệng" họ
càng chẳng được ai bảo cho. Bọn thầu khoán "tùy cơ ứng biến" mà cắt
xén của mọi người.
Chúng bảo chủ
thầu chi cho mỗi đầu phu mười đồng để trang trải trước khi ra đi, nhưng anh em
Nam Định, Thái Bình nhận được mỗi người có sáu đồng và rất yên trí chỉ được có
bấy nhiêu. Đến Hạ Lý, người nọ hỏi người kia và anh em bà con Nam Định, Thái Bình ngã ngửa người
khi biết mình bị bọn thầu khoán ăn chặn mất bốn đồng.
Anh em bà con
Hà Nam
đem chuyện ăn chặn bàn với cậu Phu. Cậu đáp:
- Chúng ta
cùng một cảnh. Người ta đòi thì mình phải đỡ họ một tay.
Lại nhân
chuyện một buổi trưa, cũng như mọi bữa cơm, anh em mỗi người được chỉ một bát,
một miếng cá khô bằng ba đốt ngón tay mặn chát, thâm xì, khắm lặm. Nước chè
bánh cũng chỉ đủ cho mỗi người một bát. Thế là cuộc đấu tranh nổ ra. Anh em bỏ
không ăn. Mấy trăm người hò la đòi Phan Tất Tạo đến. Tiếng hò la náo động cả
khu Hạ Lý. Cuộc đấu tranh của anh em vào đúng thời cơ thuận lợi. Bọn thực dân
đang cần nhiều phu mộ ở đất Bắc. Gần quê hương, việc bỏ ra về không đi nữa rất
dễ xảy ra hàng loạt. Vì vậy, Phan Tất Tạo tìm đến gặp anh chị em ngay. Đầu tiên
y tìm cách xoa dịu, hẹn lần sau sẽ cho tương tất cơm nước. Nhưng anh nhao nhao
phản đối đòi Tạo phải làm đúng lời hứa và các điều quy định trong hợp đồng. Anh
em nói: "Chúng tôi bán quê, bán mạng có mười đồng bạc. Bây giờ các ông không
trả đủ, chúng tôi không đi".
Phan Tất Tạo
thấy anh em làm găng, cử chỉ lời nói quyết liệt, y biết không xuôi, đành phải
nhận lời. Ngay buổi trưa hôm ấy, y làm thêm cơm nước chu tất. Còn số tiền ăn
chặn của anh chị em Nam Định, Thái Bình vì ê mặt nên đến tối y mới cho tay chân
cầm đến, gọi tên từng người, trao trả tận tay.
Thế là cuộc
đấu tranh đầu tiên đã thắng lợi.
Qua cuộc đấu
tranh này, cậu Phu hiểu được: Những người cùng cảnh nghèo, cùng cảnh áp bức thì
phải đoàn kết, đồng tâm với nhau mới mong giành giật được miếng cơm, manh áo.
Cuộc đấu
tranh vừa kết thúc, trong lúc còn tạm trú ở Hải Phòng, tình cờ cậu Phu lại được
gặp anh Tống Văn Trân. Anh Trân nghe chuyện anh chị em đấu tranh thắng lợi thì
rất mừng. Anh khen và dặn dò cậu Phu: "Thế là đúng đấy. Cứ như vậy mà làm.
Đoàn thể sẽ tìm đến”. Lời dặn của anh được ghi sâu trong lòng, luôn nhắc nhở
cậu Phu.
Thế rồi,
chiếc tàu chở anh chị em phu mộ đồn điền cao su Nam Kỳ đã cập bến Hải Phòng - chiếc
Com-măng-đăng Đô-ri-ê.
Tàu Đô-ri-ê
do một thiếu tá Pháp làm cấp-ten (thuyền trưởng). Thủy thủ cũng toàn người Pháp.
Bếp tàu cho anh chị em ăn đói. Cơm nước cũng tồi tệ như hồi còn ở Hạ Lý. Anh em
đã có kinh nghiệm đấu tranh trong vụ
Phan Tất Tạo. Họ nhao nhao phản đối và tìm đến hỏi cậu Phu. Cậu bàn bạc với mọi
người và cuối cùng tất cả thống nhất ý kiến là: phải đấu tranh.
Cậu Phu sẽ
đứng ra nói chuyện với chủ tàu. Lúc đó, trên tàu có một số anh em đỗ xéc-ti-phi-ca
(tương đương với tốt nghiệp cấp I), họ biết nói tiếng Pháp tàm tạm. Cậu bèn họp
anh em lại, được khoảng chín, mười người. Cậu tạo thành vây cánh, phòng nếu chủ
tàu bắt mất mình thì sẽ có người thay thế.
Đến trưa, anh
chị em bãi thực, yêu cầu cho gọi chủ tàu đến. Một lát sau, viên thiếu tá cấp-ten
bước vào khoang. Cậu Phu đứng ra thay mặt
anh em, dùng tiếng Pháp bồi nói với y:
- Theo hợp
đồng, chúng tôi được ăn no, cơm có thịt, có nước chè nóng để uống. Thế mà nhà
bếp cho chúng tôi ăn đói, nước cũng chả đủ dùng. Yêu cầu ông làm đúng hợp đồng!
Chủ tàu giận
tái mặt, y cãi xóa:
- Cho các anh
ăn no rồi các anh say sóng, mửa hết ra sàn tàu thì sao?
Cậu Phu không
nghe, vặn lại hắn:
- Ông nói
không đúng. Ăn no là quyền của chúng tôi được hưởng. Còn ăn no rồi có người mửa
cũng có người không. Cứ phải cho chúng tôi ăn no.
Chủ tàu đuối
lý, không tranh luận nữa. Nó nổi khùng trở mặt, bắt luôn cậu Phu và dọa ném cậu
xuống biển. Cậu không sợ cái trò dọa dẫm ấy. Vẫn cứ giữ vững ý kiến đã nêu ra.
Không ngờ tinh thần anh em rất gắn bó, kiên quyết. Chủ tàu ra sức dọa nhưng anh
em vẫn một lòng sống chết với nhau, cương quyết không ăn. Anh em thủy thủ Pháp
rất phục. Họ liền ném cho anh em phu mộ hàng gói bánh mỳ, pho mát. Họ nháy mắt,
hất tay, ra hiệu khuyến khích anh em cứ làm tiếp.
Đến chiều,
chủ tàu phải nhượng bộ cho cơm nước tử tế. Bữa ấy có cả thịt bò. Còn cậu Phu,
chủ tàu cũng thả ra. Anh em phu mộ sung sướng niềm nở đón cậu về.
Sau lần đấu
tranh này, cậu Phu mặc nhiên trở thành đại biểu của anh em phu mộ. Có điều gì thắc
mắc anh em lại tìm cậu hỏi han, trình bày. Mà ngay cả bọn chủ cũng vậy nếu định
giao dịch bất cứ chuyện gì với anh em phu mộ, chủ tàu cũng tìm đến cậu. Nhưng
sự dễ chịu tương đối chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi mấy ngày cuối
cùng trên tàu Đô-ri-ê. Đến cảng Khánh Hội (Sài Gòn), tính chất đàn áp khốc liệt
của bọn chủ đồn điền cao su đã biểu hiện rõ rệt.
Tàu Đô-ri-ê
vừa cập bến Sài Gòn, bọn xu-vây-dăng (giám thị trông coi phu mộ), mật thám cả
Tây lẫn ta đã ào ào xông lên. Chúng dùng gậy gõ vào đầu phu mộ mà đếm như đếm
súc vật. Anh em phu mộ thì đồ đạc lỉnh kỉnh, bị xách, tay nải, thúng mủng... Có
người còn bìu ríu cả vợ con rất nhếch nhác. Thế là cả một đám hàng mấy trăm con
người bị bọn xu-vây-dăng lùa lên như lùa một đàn bò.
Trên bộ, bọn
mã tà đông như rươi, chúng chia nhau đứng hai bên đường. Cứ cách mười thước một
thằng, tay lăm lăm dùi cui, cặc bò, chúng chửi anh em luôn mồm "Đù mẹ
chúng mày! Đồ mọi rợ!". Rồi chúng vụt roi túi bụi lên đầu anh em.
Đến nơi, vừa
hạ hòm xiểng xuống đất là anh em đến gặp cậu Phu ngay. Anh em bàn nhau cử ra
một đại biểu giao dịch với xu-vây-dăng. Lần này, cậu Phu không ra mặt mà trao
anh Trương Lạp. Anh Lạp vốn quê ở Cát Lại, Bình Lục, người cao lớn, khỏe mạnh,
mặt lúc nào cũng đỏ như Quan Công. Tính anh mạnh bạo, gặp khó khăn đến mấy cũng
không lùi, gặp nguy hiểm thế nào cũng không trốn tránh, nhưng phải cái nóng như
hổ lửa.
Anh em la hét
đòi gặp chủ mộ để phản đối việc đánh đập. Bọn xu-vây-dăng và mã tà sầm sập kéo
đến. Một tên hỏi anh em:
- Làm sao
chúng mày la hét như vậy!
Anh Lạp nổi
nóng vặc luôn:
- Các thầy
vừa chửi, vừa đánh chúng tôi từ dưới tàu lên đến đây. Nếu bây giờ tôi chửi các
thầy một câu, các thầy có chịu được không?
Thế là bọn xu-vây-dăng,
mã tà lập tức xáp lại đánh anh em túi bụi. Anh Trương Lạp bị chúng quật dùi cui
vào đầu, nằm dài trên mặt đất, máu mê nhễ nhại.
Cậu Phu liền hô anh em. Tất cả hò la rầm rập, đập phá lung tung. Bọn xu-vây-dăng,
mã tà đâm sợ, chúng chạy đi gọi mật thám. Một lát sau, chúng kéo đến nhiều như
ong. Thằng cầm đầu là một tên Pháp nói tiếng ta rất thạo. Nó hỏi:
- Thế nào?
Các con làm gì thế?
Vừa tức vì
chúng nó coi mình như súc vật, vừa tức vì thằng mật thám gọi mình bằng “con”,
cậu Phu nóng máu, bước ra trả lời:
- "Chúng
Ông" ký công-tơ-ra (hợp đồng) vào đây làm. Công-tơ-ra giao hẹn không được
đánh "Chúng Ông". Nhưng nó lại đánh "Chúng Ông". Thế là sai
pháp luật. Nếu cứ đánh nữa "Chúng Ông" đưa ra tòa!
Bốn bề anh em
nhao nhao chửi rủa. Thấy găng quá, tên mật thám đấu dịu:
- Các con cứ
giữ trật tự rồi đâu có đó.
Nó sợ tiếng
la hét vọng ra ngoài. Nó cũng muốn giao xong phu cho Sở Cao su để hết trách
nhiệm. Nó đồng ý đổi hai thằng xu-vây-dăng Tây lai đánh dữ nhất đi nơi khác.
Ở Sở Khánh
Hội chừng một tuần thì mọi thứ giấy má đã làm xong. Trong thời gian chờ đợi,
anh em phu mộ càng siết chặt tình cảm
của những kẻ tha hương, nói với nhau những điều thiết thực. Chẳng hạn:
"Chúng ta đi đây xa làng, xa nhà cửa, không bà con thân thiết. Vậy thì
phải biết che chở cho nhau", hoặc "Chúng nó súng ống, dùi cui tua
tủa, ta phải đồng tâm hiệp lực mới sống nổi được", hoặc "Cố gắng đùm
bọc lấy nhau, đợi hết ba năm công- tơ-ra mà về với vợ con, với làng với
nước".
Lần này, anh
em phu mộ bị chúng chia đi các đồn điền ở Sa Cam, Sa Cát, Lộc Ninh, Dầu Tiếng,
Phú Riềng. Chúng chia họ đi theo tỉnh. Anh em Hà Nam bị đưa về Phú Riềng và đi sau
cùng.
Anh em cứ
đinh ninh rằng sẽ sống chết có nhau trong ba năm. Ấy thế mà phải chia tay nhau,
lòng dạ ai nấy đau xót. Riêng với cậu Phu, anh em Thái Bình, Nam
Định rất quyến luyến. Họ bịn rịn từ biệt cậu. Đem đồ đạc lên xe, có người còn nói
với cậu:
- Giá cậu đi
với chúng tôi thì hay quá!
Được anh em
quý mến tin cậy, cậu Phu bùi ngùi, cảm động. Cậu cũng chẳng biết nói gì hơn
ngoài lời dặn: "Thôi, các bác đồng tâm với nhau, sau ba năm lại về quê cũ.
Có khi được về cùng một chuyến cũng nên".
Thế rồi, một
trăm năm mươi anh em Hà Nam
rời Khánh Hội lên đường vào chuyến cuối cùng.
* *
*
Nơi địa ngục trần gian
Phú Riềng là
một địa điểm nằm ở miền cực tây cao nguyên Di Linh, nằm giữa lòng một vùng rừng
già nhiệt đới. Phía bắc là vùng biên giới ba xứ: Nam, Trung và Cao Miên. Phía tây là
vùng rừng Lộc Ninh rồi tới Căm-pu-chia. Rừng ở đây còn ở trạng thái tự nhiên, chưa
hề có bàn tay con người khai thác. Cây gỗ thì lớn, phải bảy, tám người ôm mới
xuể. Những gốc dầu, gốc sao cao vút, tán xòe rộng chen cành vào nhau, ánh nắng
mặt trời giữa trưa cũng không xuyên thấu.
Những người
dân đồng bằng bơ vơ, rách rưới đứng trước cảnh ấy hoàn toàn bị ngợp. Vì thế ai
nấy càng thêm lo lắng, càng thêm nhớ nhà.
Đồn điền khá
rộng, bề dài ngót hai chục cây số, bề ngang trên mười cây. Cứ khoảng một cây số
chúng cho lập một làng. Mỗi làng, chúng dựng mấy ba-rác (lán rộng). Mỗi ba-rác
là chỗ sinh sống của năm mươi công nhân, được ngăn thành mười lán con vuông vức,
mỗi bề năm mét cho năm công nhân. Ngủ trên sàn, nấu cơm ngay trên trong lán
chật chội. Mưa thì lội, nắng thì chói chang.
Cuộc sống của
xu-vây-dăng khác hẳn. Mỗi thằng được hai gian rộng rãi, cao ráo đồ đạc đầy đủ. Riêng
nhà của xu-vây-dăng sếp thì thoáng đãng, lắp cửa kính cửa chớp đoàng hoàng. Bên
trong nhà chia làm bốn phòng ngăn nắp. Hai phòng ngủ, một phòng ăn, một phòng
tiếp khách. Có người phục vụ lấy từ công nhân lên.
Trên cùng là Chủ
nhất. Chủ nhất sống trong một ngôi nhà diêm dúa theo kiểu boong-ga-lô (biệt
thự). Xe hơi riêng hàng mấy chiếc đậu trong sân, cái đi thành phố, cái ra
săng-chiê (nơi trồng cao su), cái cho vợ con đi chợ, cái đi du hí… Trong nhà
lúc nào cũng hàng chục người phục dịch hầu hạ, từ thư ký, lái xe, bồi bếp, chị
hầu, cai vườn...
Tất cả bọn
này từ Chủ nhất đến xu (từ mà anh em công nhân gọi bọn xu-vây-dăng) đều được
tuyển lựa từ quân đội Pháp đưa vào. Nói chung bọn xu-vây-dăng, đều là những tên
đao phủ, những con quỷ sứ hung ác ghê gớm của địa ngục trần gian Phú Riềng. Đứa
nào đánh đập công nhận thật ác là lên lương rất mau.
Sau khi ổn
định việc ăn ở một ngày, bọn chủ đã phát đồ nghề làm ăn cho anh em. Mỗi người
một nón lá, một áo tơi, một con rựa, một cái cuốc và một lưỡi búa nguyệt. Đồ
nghề toàn hạng tốt bằng thép đúc đưa từ Pháp sang.
Trước tiên,
công nhân phải hạ cây, phát bụi, phơi nắng cho khô rồi nổi lửa đốt. Việc chặt
cây rất nguy hiểm. Những cây sao, cây dầu gốc lớn bảy, tám người ôm không xuể, tán
vươn trên cao chẳng biết xòe cánh đến đâu. Mỗi khi cây gãy, gốc đổ rầm xuống,
tiếng cành vụt ào ào nghe ghê người. Sau mỗi tiếng cây đổ, công nhân đều phải
nín thở lắng tai xem có tiếng ai kêu la không. Tai nạn xảy ra luôn luôn. Có hôm
tới hai, ba người bị cây đè chết. Ít thì cũng vài người bị cành nhỏ quật gãy
chân, gãy tay, toạc mặt... Càng về tối, cây hạ càng nhiều, người thì mệt rồi.
Vì thế, lúc này tai nạn thường xảy ra nhiều nhất.
Đi hạ cây,
chẳng mấy tuần là không có người bị cây đè chết. Buổi sáng đi làm cứ nơm nớp
chẳng biết đến chiều có còn sống sót mà về. Công việc đã nguy hiểm mà làm lụng
lại cũng rất nặng nhọc. Mỗi sớm, họ phải thức giấc từ bốn giờ sáng để nấu cơm.
Năm giờ rưỡi phải tề tựu xếp hàng trong sân làng để bọn xu dùng ba-toong gõ vào
đầu từng người mà điểm danh. Sau đó bọn xu dẫn anh em ra công trường làm việc
từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều, quần quật dưới nắng như thiêu, trừ mười lăm
phút buổi trưa để ăn cơm, uống nước, đi ỉa, đi đái.
Khí hậu vùng
này lại độc. Muỗi rừng rất nhiều, con nào cũng to tướng, màu vàng hoe, cánh óng
ánh. Chúng bay vo vo trên không rồi sà xuống đốt thấu quần áo anh em. Đấy là
loại muỗi sốt rét, lúc đậu đuôi cong vắt, chổng ngược lên trời.
Ngoài muỗi ra
còn mòng, những con mòng tròn như hạt thầu dầu đỏ tía. Hễ cắn vào đâu, vết mòng
loét thành sâu quảng đến đấy. Nhưng muỗi, mòng Phú Riềng không làm họ kinh sợ
bằng mối rừng. Ở vùng này mối rừng “đông” hơn kiến. Cứ khoảng bốn giờ chiều,
chúng kéo đi cả đàn. Mối thợ nhỏ xíu đi giữa, mối lính đầu to gấp đôi thân, hai
nanh cong như càng cua đi hai bên để canh giữ. Hễ có động, đàn mối dừng cả lại,
mối lính quay đầu ra chung quanh, ngóng cổ, giơ nanh ra rồi đập mạnh xuống lá
khô rào rào.
Giống mối này
có con to bằng đốt ngón tay, hai nanh cong vắt, vừa nhọn vừa sắc. Đi làm mà
giẫm phải mối rừng, hai nanh nó ngoặm bật ra máu. Nó đã ngoặm vào thịt rồi thì
hai mũi nanh cong vút của mối khóa chặt vào nhau, có dứt thì cũng chỉ được phần
thân còn cái đầu của nó đứt lại. Nanh móc sâu trong thịt. Lúc đầu, anh em công
nhân, có người chưa biết đến giống ấy. Một lần có công nhân cùng quê Hà Nam làm việc
mệt quá, lên cơn sốt không thể đứng dậy được phải nằm lại công trường. Đêm, mối
lên xơi, đến sáng, người bất hạnh chỉ còn bộ xương trắng hếu.
Ngoài bệnh
sốt sét rừng, còn chứng kiết lỵ kinh niên trong công nhân cao su. Ăn uống kham
khổ, làm lụng nặng nhọc, đòn roi vun vút, người ngợm cứ gầy rộc, mòn mỏi dần;
má hóp, răng nhô, mắt trũng quầng thâm, rạc dần rồi chết khô, chết héo làm phân
bón cho mấy gốc cao su của bọn chủ tư bản.
Bấy giờ Phú Riềng
nằm giữa mấy vòng tuần tra, canh gác nghiêm mật. Công nhân thì quá cực đến nỗi
có người vì quá nghèo túng đành ra rừng mượn sải dây treo cổ trên cành cây cho
thoát nợ. Có người tìm cách trốn, trốn lẻ cá nhân, trốn tập thể vài ba chục
người.
Một lần, anh
Phu mục kích một vụ bảy anh em trốn, bị lính bắt được trói xâu bắt về cho chủ.
Chủ bắt từng người đi trốn nằm ngửa ra rồi hạ lệnh cho lính mang giày săng-đá dận
lên ngực họ. Đứng ngoài nghe thấy xương gãy kêu rau ráu. Dận giày xong, chúng còn
đánh tiếp một trận gậy nữa rồi bỏ vào nhà tối cùm lại. Trong nhà tối, vẫn để
một cái cùm chín lỗ. Nó bắt chéo chân anh em tra vào lỗ cùm. Xong xuôi, chúng
thản nhiên đi săng-chiê (công trường) coi công nhân làm, quên đứt câu chuyện
vừa xảy ra. Một tuần sau, nhân có chuyện phạt cùm một công nhân khác, chúng mở
cửa nhà tối ra, thì bảy người hôm nọ đều đã chết cứng, chân còn tra chéo trong
lỗ cùm...
Phú Riềng
ngày một mở rộng. Công nhân mới mộ đến ngày càng nhiều. Làng công nhân đã lập
đến làng số 9. Nhưng hàng tháng thì có tới ngót trăm người công nhân ghi tên
vào sổ khai tử.
Những cây cao
su non thành hàng thành lối, lá xanh mơn mởn nom thật đẹp mắt mà cũng thật ghê
rợn, vì mỗi hàng su tính ra bón ít nhất một xác công nhân.
Rời Hải Phòng
ra đi, anh em đông đúc biết bao nhiêu. Chính sự đông đúc ấy làm dịu nỗi niềm
riêng trong lòng những người xa nhà đi tha phương cầu thực. Giờ đây, sau lần
chia năm sẻ bảy còn lại anh em Hà Nam đem nhau tới chốn này.
Bây giờ, chỉ
còn một con đường: ngót hai trăm anh em đây, đến nước này phải sát lưng vào
nhau, chống cự, bảo vệ lấy nhau cho kỳ thoát khỏi nanh vuốt của chúng. Anh Phu
nghĩ vậy và quyết liều mạng với bọn đao phủ ở Phú Riềng một phen. Cũng chẳng
lâu la gì, ngay sáng hôm sau, anh Phu đã phải đấu nhau với bọn chúng một trận
quyết liệt.
Tháng 7 năm
1927, bọn chủ Công ty Mi-sơ-lanh áp dụng chính sách roi vọt trắng trợn.
Lúc ấy, Chủ
nhất là thằng Tơ-ri-e, vốn là thằng quan ba lính bộ thuộc địa. Hắn cao lớn khỏe
mạnh, mặt lạnh và dữ như một thằng cai tù. Nó không chửi bao giờ mà chỉ đánh.
Anh em công nhân thoáng thấy cái bóng cao lòng khòng với ngọn roi vác vai của
hắn là ai nấy đều phải đề phòng, bởi hắn đã từng đánh chết khá nhiều người.
Sáng hôm ấy,
bọn cai thổi còi gọi công nhân ra tập hợp điểm danh trước khi đi làm. Một thanh
niên đau bụng chưa kịp đứng thẳng hàng đã bị Tơ-ri-e xông đến co chân đá giập
lá lách. Người bất hạnh nằm giãy đành đạch dưới chân nó. Nó thản nhiên như
không và ra lệnh cho mấy thằng dưới quyền sấn đến vút roi túi bụi vào đầu anh
em. Chúng vừa đánh, vừa đếm thật to số công nhân.
Đến lượt anh
Phu, anh giơ hai tay lên che đầu, cãi lại ngay:
- Công-tơ-ra
cấm đánh đập, sao lại đánh chúng tôi?
Anh Phu nghĩ
người công nhân vừa bị Tơ-ri-e đá lúc nãy chắc chết mất. Bây giờ mà không nói,
nay nó đánh người này chết, mai đến lượt người khác, rồi có thể là mình. Lúc
đó, thằng Tơ-ri-e lừ lừ tiến lại gần anh Phu. Anh cũng chăm chăm nhìn nó. Tơ-ri-e
cười gằn rất độc:
- Công-tơ-ra
nào? - Giọng nó kéo dài kênh kiệu.
- Công-tơ-ra
các ông ký với chúng tôi chứ công-tơ-ra nào. Trong đó có luật cấm đánh đập, mà
bây giờ các ông vẫn đánh. Người ta chết rồi kia kìa!
Anh Phu chỉ
người bị đá nằm trên mặt đất. Tơ-ri-e chẳng buồn ngoái cổ lại. Nó vẫn cười gằn:
- Nếu tao cứ
đánh thì bay định làm gì tao?
Anh Phu vẫn
bướng:
- Các ông cứ
đánh thì chúng tôi kiện ra tòa. Các ông làm trái luật.
Tơ-ri-e hầm
hầm nhìn anh Phu. Bất thình lình nó quật một roi lên đầu anh thật mạnh, miệng
hét:
- Donnez la
cadeuille! (Dần cho nó một trận dùi cui!).
Lập tức, xu
Tây, xu ta, tay roi chân giày quây ngay lại đánh tả đánh hữu. Trận mưa đòn hỗn
độn giáng xuống. Thoạt tiên anh Phu còn đứng, lấy hai tay vòng che đầu. Sau, nó
đạp anh ngã xuống đất. Anh co tròn người, dùng hai chân che bụng, che ngực. Roi
của bọn chúng vẫn đánh xuống như mưa.
Anh Phu mê
man. Chỉ biết lúc tỉnh dậy, thấy mình nằm trong nhà tối, chân bị cùm chéo nhau,
khắp người anh chỗ nào cũng đau như dần, đưa tay sờ lần, chỗ nào cũng nhơm nhớp
những máu là máu. Nó ra lệnh cho lính gác cẩn thận, bỏ đói không cho anh ăn.
Qua ba ngày,
Tơ-ri-e mở cửa nhà tối vào. Nó giạng hai chân nhìn anh Phu. Hai tay nó khuỳnh
chống lên mạng sườn, cái roi song lồng dây đeo vào ngón tay trỏ, bỏ thòng lòng
bên đùi. Nó ngắm anh một lát rồi cười khuẩy, hỏi:
- Mày còn “làm
đầu” nữa thôi?
Anh Phu lặng
thinh không đáp nửa lời. Nó sai thằng Tây đen tháo cùm cho anh. Khi ấy, anh
đứng không vững, thằng lính phải xốc hai nách đưa anh ra bệnh xá ở làng công
nhân.
Ba tháng sau,
lại một chuyến công nhân ở Bắc Kỳ vào. Cũng như lần trước, thằng Tơ-ri-e cho
đánh phủ đầu một trận ngay bữa sáng đi làm đầu tiên. Anh em căm tức lắm không
biết tìm cách gì để trị cho nó một mẻ.
Trong số anh
em mới vào có anh Nguyễn Đình Tư. Anh Tư hồi ở Bắc Kỳ là tay chơi nổi tiếng.
Anh nói với mọi người rằng: "Nó là người, mình cũng là người, làm sao cứ
để chúng nó đánh mình mãi? Rình cho kỹ, thịt phăng một thằng là đứa khác mất
vía ngay. "Sát nhất nhân, vạn nhân cụ" mà!”. Tư bảo mọi người góp
tiền làm lễ ăn thề. Mọi người nghe theo.
Đến kỳ lương,
anh em góp nhau mỗi người một đồng mua thịt bò, mua rượu, mua hương nến. Đến
tối, một số anh em ở làng số 2 theo anh Tư ra rừng. Họ bày rượu, bày thức ăn,
lập bàn thờ ăn thề. Người nào cũng dùng dao cắt đầu ngón tay cho rỏ máu xuống
chén rượu, rồi thề cùng sống chết với nhau. Thề xong họ ngả mâm rượu đánh chén
say sưa.
Vào lúc này,
anh Phu đã bị bọn chủ nghi ngờ, chúng bắt anh lên làm việc ở trạm xá. Nhân cơ
hội ấy anh học lỏm chút nghề thuốc và tìm hết cách rút thuốc về cung cấp cho
anh em. Sáng hôm ấy, anh đang phát ký ninh cho anh em thì thằng Mông-tây đến gõ
roi lên đầu từng người. Anh em giả vờ mặc kệ, cứ giơ tay lên che đầu. Thằng
Mông-tây đi sâu mãi vào trong hàng. Nó đến gần anh Tư, thình lình anh Tư gầm
lên: "Anh em ơi ! Chém chết nó đi!". Lưỡi búa nguyệt mài bén trong
tay anh Tư vung lên bổ xuống. Mông-tây chỉ kịp né cái đầu. Búa bổ xuống bả vai.
Thằng xu-vây-dăng này quay người chạy về boong-ga-lô. Nó đang hăng máu, chạy
vẫn khỏe. Anh Tư khoa búa đuổi theo, miệng hô lớn: "Ráp vô! Ráp vô!".
Một số anh em khác cũng giơ cuốc chim, dao rựa đuổi mấy thằng cai chạy toán
loạn. Thằng Mông-tây không chạy được về đến buồng để lấy súng. Mới tới cầu
thang gỗ ở bên ngoài boong-ga-lô nó đã bị tới chín lưỡi búa, trúng toàn chỗ
phạm. Nhát cuối cùng bửa hẳn một nửa mặt nó ra.
Bọn cai Tây,
bọn lính da đen hoảng sợ, rầm rập kéo đến xả súng bắn ào ào. Anh em phá chạy cả
vào rừng.
Sau, thằng
Tơ-ri-e đến. Nó huy động thêm lính vây tròn tứ phía rồi mới càn. Nó bắt được về
bốn, năm chục người. Còn bao nhiêu, đích tay nó giương súng bắn chết rồi vùi
luôn xác dưới gốc cao su ngoài rừng. Những người đang ngắc ngoải cũng bị chôn
sống.
Còn một số
anh em chuồn thoát vòng vây nhưng cuối cùng cũng không thoát. Bọn lính dõng mọi
chặt đầu họ, cắt tai đem về nộp chủ đồn điền để lấy thưởng. Riêng anh Phu,
thằng Tơ-ri-e cũng nghi ngờ, nó cho gọi lên dọa hỏi xem anh có dính líu gì đến
vụ này không? Anh trả lời: "Không biết". Tơ-ri-e bất ngờ chộp lấy tay
anh xem đầu ngón trỏ. Nhưng nó không tìm được dấu cắt tay ăn thề. Không có bằng
chứng cụ thể, nó phải thả anh ra.
Đến cuối năm
lại xảy ra một vụ nữa. Ở làng số 2 có anh Nguyễn Văn Chánh, một người cai ta,
nhưng anh khá tốt, không hành hạ công nhân. Mỗi khi ra săng-chiê coi, anh
thường đứng gác cho anh em lãn công. Bọn Tây để ý rình nhưng vẫn không bắt quả
tang lần nào.
Một buổi
sáng, thằng Va-lăng-tanh ra săng-chiê. Nó tỷ mỉ xem từng hốc cây mới đào xem có dựng
vách
thành không. Quả nhiên, nó gọi anh Chánh lại quát
tháo:
- Mày trông phu
thế à? Lỗ đào nham nhở, cuốc xẻng cùn hết
cả. Đây, mày xem!
Nó giằng lấy
lưỡi cuốc từ tay anh công nhân đứng gần, giơ lên mặt Chánh. Lưỡi cuốc chỉ hơi
gợn một chút. Chánh cãi:
- Ông đi tìm
suốt cả đồn điền cũng chẳng được cái cuốc nào lành hơn đâu. Người ta giữ thế
này là tốt lắm rồi!
Thằng
Va-lăng-tanh chửi tục rồi sừng sộ co chân đá phốc ngay vào mạng mỡ Chánh. Bị
một đá bất ngờ, không kịp tránh, anh đổ ngay xuống đất rồi ngất lịm luôn, da
mặt tím ngắt, mắt trợn ngược, miệng sùi bọt.
Công nhân bỏ
việc xúm lại. Va-lăng-tanh vẫn ngang ngược quát:
- A! Mày giả
vờ ăn vạ phỏng? Ông cho mấy cái đá cho mày biết thân.
Nó đá thêm
mấy cái vào người Chánh. Anh em uất quá nói:
- Người ta
ngất sùi bọt mép cón đánh nữa. Coi anh ấy chết rồi không chừng.
- Chết bỏ. Đồ
láo!
Va-lăng-tanh
chửi tiếp một câu rồi xách roi ra về. Anh em xúm lại khiêng Chánh sang bệnh xá.
Nhưng anh Chánh đã bị giập lá lách. Anh lăn lộn rên rỉ được một lúc thì chết.
Anh chết, bỏ lại một vợ và hai đứa con thơ.
Đêm ấy, anh Phu
đi vận động khắp các lán: nếu cứ để nó đánh mãi, người mình chết mòn hết. Nhưng
làm liều như hai lần trước với nó cũng chẳng ăn thua gì mà thiệt mạng nhiều.
Nhân việc này, anh bàn với anh em phải đưa việc ra tòa. Được mọi người đồng ý.
Anh vận động chị vợ anh Chánh. Chị đồng ý đứng tên trong đơn. Thế là anh Phu
viết lá đơn đưa chị Chánh điểm chỉ vào. Sáng hôm sau, anh em phát đơn kiện ra Tòa
án Biên Hòa.
Cuối cùng,
việc được đem xử ở Biên Hòa. Anh em chuẩn bị nhân chứng kỹ lưỡng, mọi câu khai
đều ăn khớp nhau: Đúng là thằng Va-lăng-tanh đá chết người. Đến lượt nó,
Va-lăng-tanh cũng nhận thẳng là có đá. Nó khai thế này:
- Thằng Chánh
coi săng-chiê không hết bổn phận. Tôi bảo nó. Nó cãi lại. Tôi đá dọa nó một
cái. Ý định tôi chỉ đá vào mông nó, chẳng may nó tránh, đâm thành trúng mạng
mỡ. Tôi không định đá vào đấy.
Cuối cùng Tòa
án Biên Hòa kết luận: Va-lăng-tanh nhỡ chân đá chết người. Tội ngộ sát. Phạt năm
đồng bồi thường cho vợ người xấu số.
Việc đã đưa
công khai ra đến tòa mà xử như thế thì quá trắng trợn. Rõ ràng từ đây, anh em
công nhân bảo nhau cứ phải tự coi lấy việc của mình, đừng có trông cậy gì ở tòa
án thực dân, đế quốc mà phải tìm cách đấu tranh khác. Đấu tranh lãn công và
triệt cây giống!
Trước hết,
năng suất chung của đồn điền xuống trông thấy...
Tiếp đến
những cây giống đem từ vườn ươm về trồng trong những chiếc rổ nhỏ bằng tre đan
rất khéo. Anh em bươi đất trong rổ lên, dùng dao con bấm vào chiếc rễ, rồi lại
trồng xuống hố tử tế. Nước ngấm vào rễ. Một tuần sau rễ thối nhũn. Cây lá héo
dần, phải nhổ lên trồng thay cây khác. Để cho bọn Tây khỏi nghi, cứ vài ba cây
mới xén rễ một cây. Quả nhiên chúng không nghi ngờ tới mẹo đó.
Thế rồi, đầu
năm 1928 có một chuyến thanh tra của ông Bùi Bằng Đoàn, đại diện cho Chính phủ
Nam Triều. Ông Đoàn là người khảng khái. Ông muốn tìm ra sự thực. Nhưng lập tức
bọn chủ cho tay chân đối xử với anh em công nhân rất tử tế, các khâu ăn, ở được
chỉnh trang. Trạm y tế có thuốc men đầy đủ, ngoài săng-chiê anh em lao động có
vẻ dễ chịu. Chúng bố trí tay chân trả lời những câu hỏi của ông Đoàn.
Nhưng đến
làng số 3, công nhân đã cử ngầm anh Tý thay mặt anh em tố cáo cảnh sống của đồn
điền. Anh Tý bước lên thẳng thắn nói đến cúp phạt, đánh đập công nhân xảy ra
hàng ngày... Tình hình ăn uống bị bớt xén, rồi tai nạn lao động... Thằng Va-sê
gật gù nghe, thỉnh thoảng y lại đá vào một câu "Cái này để tôi xem!",
hoặc "Bây giờ tôi mới biết đấy".
Cuối cùng y
cười nhạt đưa ông Bùi Bằng Đoàn ra xe. Ông Bùi đi rồi, đời sống Phú Riềng trở lại như cũ. Thậm
chí còn thậm tệ hơn cũ nữa là khác.
* *
*
Đảng đến với Phú Riềng
Tháng 7 năm 1929
Sau những
thàng ngày lăn mình vào "Vô sản hóa" tại trung tâm kinh tế miền Nam,
sống cuộc đời thợ thuyền, anh Ngô Gia Tự đã chọn đồn điền Phú Riềng, nơi đông
công nhân nông nghiệp bị đầy ải như nô lệ trung cổ, làm nơi vận động cách mạng.
Anh Tự đã nhìn ra sức mạnh quật khởi của quần chúng lao khổ ở cái địa ngục trần
gian ấy. Anh phái Nguyễn Xuân Cừ, một
đồng chí của anh, lên Phú Riềng hoạt động trong phong trào công nhân cao su và
xây dựng cơ sở Thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Lúc này bọn
Tây đang ghét anh Phu, chúng chuyển anh sang bệnh xá phục vụ bệnh nhân để tách
anh khỏi số anh em Hà Nam
cũ đang rất tin mến anh.
Về đây, anh
Cừ nghe được nhiều chuyện về các cuộc đấu tranh mà anh Phu là người hăng hái
đương đầu nên anh Cừ rất quý mến. Anh đưa anh Phu về phòng xép của mình để trò
chuyện. Anh Cừ tính điềm đạm, chầm chậm giảng giải từng chi tiết nhưng rất
thiết thực về phương pháp đấu tranh, đáp ứng đúng chỗ bế tắc của anh chị em
công nhân. Anh chỉ ra nguyên nhân sự thất bại của những lần đấu tranh trước,
vạch cho mọi người tin tưởng phương pháp đấu tranh mới. Cụ thể, anh nói cho mọi
người hiểu thế nào là một cuộc đấu tranh có tổ chức. Phải đề ra những khẩu
hiệu, yêu sách như thế nào. Phải lập ban lãnh đạo ra sao? Rồi đến tổ chức, bảo
vệ, tích lũy lương thực... Ít lâu sau, phong trào đấu tranh của anh chị em công
nhân đồn điền đã có tổ chức chặt chẽ, quy mô mạnh mẽ hơn. Số người được anh Cừ
tuyên truyền kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng chí Hội lên tới bốn người:
Phu, Hồng, Tạ, Hòa.
Đối với anh
Phu, anh Cừ có tình cảm riêng. Một phần vì anh thẳng thắn, trung thực. Một phần
là vì anh Phu là người đầu tiên được anh bắt rễ.
* *
*
Đêm tháng 10 năm 1929
Ở Nam Kỳ, anh
Ngô Gia Tự vận động các tổ chức thanh niên chuyển thành các chi bộ Đông Dương
Cộng sản Đảng.
Và chi bộ
Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng chính thức được thành lập đêm 28 tháng 10
năm 1929. Tất cả có sáu anh em. Họ đưa nhau ra rừng, sau làng số 3, làm lễ
tuyên bố. Đêm ấy là một đêm trăng vằng vặc, tiết trời hơi lạnh, vậy mà anh em
cảm thấy nóng ran cả người. Anh Cừ vẻ mặt xúc động, thay mặt cấp trên tuyên bố
lý do cuộc họp. Ai nấy nắm chặt tay phải giơ cao khỏi đầu chào cờ. Lá cờ phủ
dọc thân cây. Chào cờ xong, anh Cừ đọc mấy lời thề. Mấy anh em giơ tay lên trời
tuyên thệ. Thề xong, mọi người bắt tay nhau, gọi nhau là "đồng chí".
Giờ đây, Phạm
Văn Phu chính thức trở thành thành viên trong gia đình những người cộng sản,
những người cách mạng. Hai tiếng "đồng chí" lần đầu tiên được gọi sao
mà ấm áp thân yêu lạ thường!
Thế là chi bộ
Phú Riềng được thành lập. Đồng chí Cừ làm Bí thư. Đồng chí Phu được phân công
phụ trách tổ chức thanh niên Xích vệ đội. Sau đó, các tổ chức bí mật của Đảng
được thành lập.
Sau khi thành
lập chi bộ Đông dương Cộng sản Đảng, phong trào đấu tranh chống lại bọn đốc
công Tây ở đồn điền Phú Riềng ngày một lên cao. Anh Phu là một người rất hăng
hái, khôn khéo. Nghe anh Cừ giới thiệu về "đồng chí Quyết", anh rất
muốn gặp.
Một buổi sáng
chủ nhật cuối năm 1929, anh Phu về Sài Gòn tìm gặp anh Quyết. Theo địa chỉ anh
Cừ vẽ, anh tìm về phố La-gờ-răng-đi-ê, đến một căn nhà hẹp. Sau mấy tiếng gõ
cửa nhẹ, chờ một lúc cánh cửa mới mở ra. Nhờ anh Cừ giới thiệu kỹ từ trước, vừa
thấy chủ nhà là một người có thân hình rắn chắc, nước da bánh mật và đôi mắt rất
trung thực, anh Phu nói ngay:
- Tôi là Phạm
Văn Phu!
Người chủ nhà
vội bắt tay vị khách:
- Anh Phu,
tôi đang chờ anh. Anh Cừ có nói chuyện nhiều về anh...
Lúc này, vào
cuối năm 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc vô sản hoá
cán bộ, đảng viên. Anh Quyết đi làm phu khuân vác ở Chợ Lớn vừa để kiếm sống,
vừa tạo địa bàn hoạt động. Căn buồng anh Quyết ở chật hẹp, chỉ có chiếc giường nát, trên dây phơi treo vài bộ
quần áo rách thay đổi. Cách nói của anh Quyết rất mộc mạc, không văn chương gì
cả nhưng thiết thực: "Muốn giải phóng cho mình thì phải giải phóng cho giai
cấp trước đã. Vì mình là người của giai cấp" và anh dặn: "Đấu tranh
để giải phóng giai cấp thì phải lăn vào quần chúng vô sản, phải vô sản
hoá".
Qua chén trà
ấm cúng, anh Phu chậm rãi kể lại một số cuộc đời của những người phu đã và đang
sống ở đồn điền cao su Phú Riềng.
- Như vậy đấy
anh ạ! Ở đồn điền cao su là một thế giới khác. Đúng là một địa ngục. Anh chị em
ta làm quần quật nhưng lại bị bọn đốc công Tây đánh đập suốt ngày. Chúng nó
chẳng cần chửi, chỉ đánh. Đánh những đòn rất hiểm. Có lần, chính mắt tôi trông
thấy, anh Thanh - người ngoài Hải Dương vào làm ở đây, hôm ấy đến phiên đi cắm
mốc đào lỗ trồng cao su. Anh cắm có lệch về bên trái một chút, nhìn không được
thẳng hàng. Thế là thằng đốc công Ba-lăng-tanh bước đến, nhìn anh trừng trừng,
không nói gì, nó thoi anh một quả như trời giáng vào mạng mỡ. Anh Thanh ngã lăn
quay như gà rù, chết tươi. Nó bắt phu khênh xác anh ra phía đầu rừng, đào qua
quýt rồi chôn. Chôn vội vàng để còn có thì giờ mà đi làm tiếp...
Anh Tự ngồi
nghe, đăm chiêu suy nghĩ. Buồn thương, căm giận hiện dần lên trên nét mặt anh.
Anh Phu kể tiếp: "Không chết vì đòn Tây, vì cây đè, vì mối rừng thì cũng
chết vì bệnh sâu quảng. Cái giống rừng đất đỏ, hễ vấp chân chảy máu là bị sâu
quảng ngay. Nhiều anh em ốm nặng vẫn cứ phải đi làm. Chân bị sâu quảng sưng
tấy, lở loét họ vẫn cố lết, đến giữa rừng thì nằm liệt, ngất đi. Thế là cơ man
con mối rừng có càng, đến hàng triệu con, bâu đến cắn vào khắp mình, vào mặt,
khoét cả hai mắt. Chết rồi mà không ai biết đó là ai... Anh Quyết ạ, có người
nghèo túng quá, lại bị nhục nhã vì đòn Tây, thấy không sao thoát khỏi cảnh địa
ngục này đã treo cổ lên cây cao su, trước đây mình trồng, mà chết. Có người tìm
đến vực sâu đâm đầu xuống. Nhưng cũng chưa đau lòng bằng cái chuyện sau đây: Có
bảy anh em không chịu nổi cảnh khổ nhục của đồn điền cao su đã rủ nhau đi trốn
nhưng không thoát được. Cả bảy người bị xích tay, trói lại, dẫn về. Thằng chủ
đứng giạng háng nhìn, cho bọn lính đánh phủ đầu từng người một cho đến khi họ
không còn đứng vững. Nó còn bắt lính dùng giày săng-đá dận lên từng anh. Xương
gãy kêu răng rắc. Máu ộc ra cả đằng mồm, đằng mũi. Chúng tống vào xà lim, cùm
chân cả loạt. Một tuần sau ngửi thấy có mùi thối, tên chủ mới sực nhớ. Hắn đến
mở cửa xà lim, đi vào thì bị mấy con nhặng xanh bay vù ra, đập cả vào mặt mũi,
quần áo. Bảy người đã chết từ lâu. Mặt mũi, tay chân đen sạm, mắt mở trừng
trừng”.
Cả người kể
và người nghe giàn giụa nước mắt.
Qua những sự
việc do chính người công nhân đồn điền cao su kể lại, anh Quyết liền đúc kết,
giải thích cặn kẽ cho anh Phu hiểu vì sao mà có cảnh bất công: bọn chủ thì phè
phỡn, tàn bạo, giết người; còn những người phu nếu không bị giết hại thì cũng
làm nô lệ, nghèo đói suốt đời. Vậy muốn bỏ cảnh bất công ấy phải làm gì? Rồi
sau đó, anh lần giở một tài liệu của một ký giả Pháp tả cảnh dân đói tập trung
lại sau một trận bão lụt khủng khiếp ở Bắc Kỳ vừa rồi và dịch cho anh Phu nghe:
"Trong một miếng đất rào kín bốn bề có ba hay bốn nghìn người mặc áo vải
nâu rách rưới. Họ chen chúc nhau chật ních đến nỗi nhìn chung thì thấy như một
đống gì rung rinh, có những cánh tay giơ lên gầy như que sậy, khúc khuỷu, khô
queo. Trong mỗi người bệnh gì cũng có, tật gì cũng có: mặt phù ra hay không còn
chút thịt, răng rụng, mắt mờ hay lem nhem, mình đầy ghẻ lở. Đàn ông chăng? Đàn
bà chăng? Hai mươi tuổi hay sáu mươi tuổi? Không thể phân biệt được. Không còn
phân biệt được họ là trai, gái, hay già, trẻ, chỉ thấy một cái tình cảnh khốn
khổ tột bậc mà hàng nghìn cái miệng đen kêu lên những tiếng kêu khủng khiếp của
súc vật...".
Anh còn nói
rõ để người đồng chí vừa được giác ngộ hiểu thêm: ruộng đất, đồn điền, rừng
núi, hầm mỏ, bờ biển và mọi thứ của cải trên đời này là của ai? Từ đâu mà có?
Ai được quyền hưởng?
Anh Phu không
ngờ sau cuộc gặp gỡ "đồng chí Quyết", anh đã thấy mình khác trước
nhiều lắm. Anh đã hiểu thêm nhiều điều, nhờ có cái nhìn chính xác của Đảng tiền
phong về mọi vấn đề: người giàu, người nghèo, bọn chủ, người thợ, kẻ bóc lột,
người bị áp bức, thằng đế quốc thực dân, thằng phong kiến địa chủ... Từ đó, anh
Phu thường xuyên liên lạc với anh Quyết.
Dưới sự lãnh
đạo chặt chẽ của anh Quyết thông qua anh Phu mà phong trào đồn điền cao su Phú Riềng
ngày càng mạnh lên rõ rệt.
Với anh Phu,
anh Quyết quả là một con người thông tuệ, quảng bác, sâu sắc mà giản dị. Anh
Phu muốn hiểu thêm về cuộc đời tư một con người mà anh coi là "thần
tượng".
Rồi một đêm,
sau buổi đi họp chi bộ về, hai anh em cùng ngồi ở một mỏm đồi nhỏ, trăng sáng
và gió nồm lộng thổi, anh Cừ tâm sự: "Ngô Sĩ Quyết là bí danh của đồng chí
Ngô Gia Tự. Anh Tự quê ở Tam Sơn, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Anh sinh trưởng trong một
gia đình nhà nho nghèo. Thú thực, mình và anh Tự là có họ ngoại rất gần. Cả hai
anh em theo học tại Trường Bưởi ở Hà Nội, cùng học với anh Lê Văn Lương. Sau,
cả ba anh em cùng quyết chí đi làm cách mạng. Anh Ngô Gia Tự thi đậu tú tài
Tây. Thời ấy có mảnh bằng này có thể bước lên con đường công danh phú quý.
Nhưng anh Tự không đi theo con đường ấy.
Anh trai anh Tự
là Ngô Gia Lễ đậu cử nhân, làm Tri huyện nhậm chức ở Hưng Hoá. Một hôm ngồi xe
hơi về thăm nhà, gặp anh Tự nên lưu lại quê ít ngày. Anh trai hỏi anh Tự:
- Chú dạo này
vất vả tợn, chẳng biết có ăn thua gì không? Nhưng e khổ suốt đời. Chú khí khái,
anh biết lắm, nhưng thời buổi này chẳng nên tích sự gì đâu.
Anh Tự vặc
lại:
- Thế anh
khuyên tôi làm gì nào?
- Anh muốn
chú ra làm việc. Chú có bằng tú tài Tây rồi kia mà. Làm quan thanh liêm tránh
được khổ sở mà cũng chẳng hổ thẹn gì.
Anh Tự ngắt
ngay lời anh:
- Tưởng gì,
hoá ra anh lại khuyên tôi ra làm quan?
- Thời thế
khác rồi, chống lại cũng chẳng ăn thua gì. Anh không muốn chú bị tù đày, chết
dần, chết mòn, cho nên mới nói cho chú biết thời, biết thế, còn tuỳ chú.
Anh Tự đáp
lại:
- Anh nhìn
thằng Khảm, cháu ta kia kìa, thằng Ngô Gia Khảm. Cháu ruột mình đấy, có xa xôi
gì. Ở với vợ anh sáu năm cắt cỏ, chăn trâu, không lớn lên được đấy.
Anh Lễ im
lặng, anh Tự nói tiếp:
- Chắc anh
làm Tri huyện cũng thấy nhiều tù chính trị bị tù đày, mòn xương nát tuỷ. Nhưng
mòn xương nát tuỷ không phải là chết. Mình đạp chúng nó xuống cho dân mình có
áo có cơm thì tù đày là chuyện dĩ nhiên...
Thế rồi từ
năm 1928, thực hiện chủ trương "vô sản hoá", anh Tự làm công nhân khuân
vác ở bến cảng Sài Gòn. Anh sớm nhận thức được sự cần thiết thành lập một Đảng
Cộng sản ở Việt Nam.
Anh Tự trở ra Hà Nội cùng một số đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản. Chi bộ cộng sản đầu tiên được lập tháng 3 năm 1929 tại
số nhà 5D Hàm Long, Hà Nội.
Tháng 5 năm 1929,
Ngô Gia Tự cùng một số đồng chí trong Kỳ bộ Việt Minh được cử đi Hương Cảng dự
Hội nghị Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Tại hội nghị, anh Tự đứng lên phát biểu quan điểm: "Tổ chức Thanh niên với
nhiệm vụ tuyên truyền vận động quần chúng làm cách mạng chứ chưa phải là chính
Đảng vô sản. Phong trào cách mạng trong nước đã đến lúc đòi hỏi có Đảng Cộng
sản lãnh đạo thống nhất. Mà đã lập Đảng Cộng sản thì phải giải thể Việt Nam Thanh
niên cách mạng Hội...". Lâm Đức Thụ, chủ trì hội nghị, đã đứng lên cắt
ngang lời giải thích của đại biểu Bắc Kỳ. Đối với anh Tự đây là khoảnh khắc
phải lựa chọn tức thời. Hoà hoãn với Thụ thì dễ quá nhưng như vậy là phản bội
lại ý chí của Kỳ bộ Bắc Kỳ. Anh Tự bàn nhanh cùng mấy anh em trong đoàn rồi
đứng dậy tuyên bố: "Thay mặt chín trăm hội viên Thanh niên Bắc Kỳ trong
tổng số một ngàn năm trăm hội viên Thanh niên toàn quốc, chúng tôi xin tuyên bố
thoát ly Đại hội”. Cánh cửa phòng họp bật mở, ba đại biểu Bắc Kỳ đi ra. Dương
Hạc Đính[1] ở lại
theo Thụ.
Và ngày 17
tháng 6 năm 1929, Đông dương Cộng sản Đảng đã thành lập ở Bắc Kỳ.
Trở lại Nam
Kỳ lần này, anh Tự đã có tầm nhìn bao quát của nhà chỉ đạo. Anh chọn ba cơ sở
tiêu biểu cho ba lực lượng chính trị, kinh tế, địa lý tạo thành thế chân kiềng:
Xí nghiệp Ba Son, nơi có đông công nhân công nghiệp lớn ở thành phố; đồn điền
cao su Phú Riềng ở miền núi, đông công nhân nông nghiệp bị đầy ải nô lệ như
thời Trung cổ; xã Vĩnh Kim, đông nông dân của vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long.
Anh Tự là
người đầu tiên đi vào xí nghiệp, đồn điền nói tiếng nói của Chủ nghĩa Cộng sản
với giai cấp công nhân…”.
Trăng về đêm
càng tỏ, muôn vàn con mắt lá lấp lánh ánh trăng, không gian mênh mông tĩnh
mịch. Anh Cừ nhìn về những chòm sao nơi cuối trời rồi nói: "Này Phu ạ, một
ngày gần đây, những người dân phu trên cao nguyên này sẽ vùng lên làm cuộc cách
mạng bão táp dữ dội". Anh Phu ngẩng cao đầu, phanh áo ngực đón gió nồm nam
về, lòng anh thấy nao nức lạ thường!
Cuối năm
1929, anh Cừ bị đế quốc tình nghi, thằng Dương Hạc Đính đã khai ra nhưng vì
không có một chút bằng cứ nào cụ thể nên bọn chúng không thể bỏ tù anh. Chúng
trục xuất anh. Chi bộ Phú Riềng giao lại cho anh Phu.
Đồng chí Phu
lúc này vừa là Bí thư chi bộ, vừa trực tiếp làm đội trưởng Đội Xích vệ, một tổ
chức vũ trang của Đảng. Cứ mỗi làng tổ chức một tiểu đội độ bốn mươi người, có
tiểu đội trưởng chỉ huy, kỷ luật rất nghiêm. Đồng chí Phu tự lập ra những điều
khoản cho anh em đội viên thực hiện. Mỗi đội viên xích vệ phải thề tuyệt đối
trung thành với Đảng. Mọi người phải tuân
thủ mệnh lệnh khi được giao phó...
Phải có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ các cuộc đấu tranh.
Đồng chí Phu vốn là tay gậy và giỏi võ ngay từ
hồi còn học ở Trường dòng Hoàng Nguyên, bây giờ dạy lại cho anh em.
Mỗi khi đến
ngày lễ, anh em mang đầu lân đi múa. Anh em đội viên đều bịt khăn đỏ, mặc áo
đỏ, thắt dây lưng bỏ múi, tay cầm gậy, xem ra cũng oai lắm.
Vũ khí của
đội chủ yếu là gậy và lưỡi búa nguyệt đúc bằng thép tốt. Anh em mài thật bén,
sáng như gương. Tưởng chỉ bổ một cái là bửa đôi đầu giặc.
Lúc này, bọn
chủ tư bản đã rõ rằng nếu chỉ dùng đánh đập không thôi, chúng không thể nào
buộc công nhân sinh lời cho chúng nhiều được. Thằng Va-sê
sử dụng kết hợp giữa đánh đập, cúp phạt tàn khốc với mị dân khéo léo. Nó bỏ
tiền mua mũ áo cho đội chèo, mua dụng cụ thể
thao, mua nhạc cụ trống phách. Chi bộ
Đảng chủ trương nắm lấy thời cơ đó, tổ chức một số hội như Hội Tương tế, Hội Thể
thao, văn nghệ để tập hợp quần chúng.
Từ khi Phú Riềng
có chi bộ cộng sản thì tất cả các chính sách đàn áp khốc liệt với đòn tra tấn
thâm độc kết hợp mị dân xảo trá của những tên đao phủ nhà binh, cố đạo phá giới
đều bị phá tan. Công nhân Phú Riềng đã trở thành một lực lượng có tổ chức chặt
chẽ, đấu tranh có lãnh đạo. Nó mang đầy đủ tính giai cấp, tự giác.
Trước tết năm
1930, chi bộ Phú Riềng đã chuẩn bị điều kiện vật chất, điều kiện tinh thần cho
cuộc bãi công lớn sắp nổ ra. Các đoàn viên nghiệp đoàn trữ gạo, muối, cá khô.
Làng nào làng nấy cử người vào rừng làm
lán giấu gạo, cá, muối. Chi bộ giao cho bộ phận Xích vệ đội nhiệm vụ khi cuộc
bãi công nổ ra là tìm cách chiếm lấy kho gạo của đồn điền và chuyển lên rừng
cất giấu. Về mặt vũ khí cũng gấp rút sửa soạn. Anh em tổ chức rèn trong xưởng
cơ khí những díp ô tô gãy, đánh cho mỗi công nhân một số dao năm, dao bảy. Ai
có búa nguyệt phải mài luôn cho bén. Và mỗi người phải sắm sửa một ngọn gậy,
hai bó đuốc. Chi bộ và Ban Chấp hành nghiệp đoàn bàn bạc nhiều về mục đích đấu
tranh đòi quyền lợi cho công nhân như:
- Cấm đánh
đập.
- Cấm cúp
phạt.
- Miễn sưu
thuế.
- Trả lương
cho nữ công nhân nghỉ đẻ.
- Ngày làm 8 giờ kể cả thời gian đi ra săng-chiê và trở về lán.
Đêm 28 Tết, Ban
Chấp hành nghiệp đoàn cao su Phú Riềng chấp hành chỉ thị của chi bộ Đảng triệu
tập một hội nghị đại biểu của các làng công nhân ở ngoài rừng. Anh em đi họp
rất đông. Cuộc họp tiến hành bí mật nhưng rất sôi nổi, náo nức. Trời rét căm
căm, tối đen như mực, mấy ngọn đuốc đốt lên chỉ đủ soi và sưởi ấm một khoảng
rừng nhỏ xa làng, xa lán. Các đại biểu ngồi túm tụm co ro vì rét. Nhưng cứ nhìn
ánh mắt long lanh, giọng nói sôi nổi của anh em cũng đủ thấy sự hăm hở của tất
cả Phú Riềng.
Chi bộ chủ
trương bãi công. Tin về các làng công nhân, anh em sôi nổi chuẩn bị vũ khí rất
tích cực, tưởng như sắp có một cuộc khởi nghĩa.
* *
*
Những ngày bão nổi
Ngày 3 tháng 2 năm 1930
Hôm đó cũng
là sáng mồng Một Tết Canh Ngọ. Từ sớm công nhân các làng theo sự chỉ huy của
các tiểu đội trưởng xích vệ, xếp hàng kéo nhau lên boong-ga-lô của tên chủ
Su-ma-nhắc. Anh em kéo đi rầm rập, có tổ chức. Hết làng này đến làng kia, không
ồn ào, không chen lấn. Trong tay mỗi người lăm lăm một cây gậy trường.
Theo đúng tập
tục của Phú Riềng những Tết năm trước, đội múa lân đi đầu. Anh em trong đội lân
toàn những tay chiến chọn ở Xích vệ đội ra. Người nào cũng bịt khăn đỏ, áo đỏ,
quần xanh, thắt dây lưng bỏ múi. Ai nấy đều cầm côn, cầm búa đi hai bên hộ vệ
cho người múa lân. Đoàn người càng đi càng kéo dài thêm ra, cứ qua một làng lại
đông thêm vài trăm người. Cuối cùng, năm nghìn công nhân của tất cả đồn điền Phú
Riềng đều kéo vào trước sân nhà của Su-ma-nhắc.
Thằng này
biết có chuyện, nhưng vẫn làm gan đứng ra đón anh em từ ngoài thềm. Mặt nó vẫn
nhơn nhơn, miệng phì phèo điếu thuốc lá ngậm lệch. Nhưng cứ nom tròng con mắt
xanh lè của nó nhớn nhác đảo quanh thì cũng biết là bụng nó đang trợn.
Theo đúng kế
hoạch đã định, công nhân vây quanh sân, ngồi trật tự xem múa lân. Đội lân múa đủ các kiểu, con
lân to bằng cả tấm phản do anh em tự thửa lấy, đuôi chập mấy khổ vải đỏ lại làm
một, chồm ra giữa sân thật là mạnh mẽ. Lân rỡn cầu, lân rỡn với tay kiếm, tay
côn. Những tay kiếm tay côn hôm nay tung hoành ngang dọc, mặc sức. Những miếng
gậy thế võ do đồng chí Phu dạy, nay được mang ra tung phá thỏa chí. Tiếng
trống, tiếng thanh la nổi vang cả rừng
cao su không dứt.
Su-ma-nhắc
thấy anh em không làm dữ, hắn đâm bạo dạn, xuống hẳn bực thềm. Chắc hắn vừa
uống rượu nên mặt đỏ như gà chọi, dáng đi loạng choạng chực ngã. Su-ma-nhắc giở
thủ đoạn mấy năm cũ. Nó gọi bọn tay chân mang đến mấy két hào bạc rồi sai tung
hê ra sân. Tưởng như mọi năm, công nhân sẽ ùa nhau vào tranh cướp, bày một trò
cười cho nó khinh bỉ đứng xem. Nhưng năm nay, sự việc diễn ra khiến nó vừa tức,
vừa sợ, vừa bẽ mặt. Hào một, hào đôi, năm xu kền mặc sức lăn boong vào chân
công nhân, nằm trắng xóa trên mặt đất, nhưng không một ai buồn nhặt.
Đội lân vẫn
cứ múa lân diễu võ dương oai, khác hẳn lối múa những năm trước. Nó không phủ
phục xuống lễ, không liếm đất, không bái lạy khuất phục. Trái lại như một Chúa
Sơn lâm hùng dũng vờn với võ sĩ đánh gậy. Cuối cùng, lân vượt ngang sân giẫm
lên xu, lên hào rơi trắng xóa mặt đất, tiến lên thềm boong-ga-lô, tung râu cước
trắng, lắc đầu ra oai như muốn thách thức. Trông mặt Su-ma-nhắc cũng biết hắn
đang tức lộn ruột. Hắn khoát tay ra hiệu cho đám lân ngừng lại rồi sai thông
ngôn hỏi anh em:
- Quan lớn
tốt, quan lớn thưởng tiền sao anh em không lấy?
Anh em đã cử người sẵn sàng đứng lên trả lời:
- Ngày Tết
anh em múa lân cho vui làng vui xóm thôi!
Su-ma-nhắc
cười nhạt chúc Tết mọi người:
- Năm mới
quan lớn chúc anh em làm lụng khỏe, quan lớn sẽ tăng lương!
Theo đúng kế
hoạch đã định trước, đồng chí Phu thay mặt anh em "chúc Tết" lại chủ:
- Hôm nay là
ngày mồng Một Tết, quan lớn chúc anh em làm lụng khỏe. Anh em xin cám ơn! Về
phần anh em cũng xin chúc quan lớn năm nay tốt hơn nữa với anh em. Quan lớn bảo
cai ký đừng cúp lương, phạt lương anh em, đừng đánh đập anh em. Ai chửa đẻ,
quan lớn phát gạo cho người ta mẹ tròn con vuông. Quan lớn đừng thu thuế thân
của anh em nữa... Ngày xuân năm hết Tết đến, anh em biết sao nói vậy. Quan lớn
tốt, quan lớn làm ăn cho anh em...
Anh em cứ nửa
nạc, nửa mỡ đưa ra những yêu sách ra dưới hình thức chúc Tết như vậy khiến cho
Su-ma-nhắc tức điên người mà chẳng làm gì nổi. Sau đó, anh em lại nổi trống múa
lân một hồi nữa rồi rầm rộ ra về, bỏ lại sân nhà Xu-ma-nhắc trắng xóa bạc hào.
Trong ba ngày
Tết được nghỉ, theo đúng chủ trương của chi bộ và Nghiệp đoàn, ban ngày anh em
qua lại thăm hỏi nhau nườm nượp, chiều và trưa làm cơm nước ăn chung. Tối đến,
trống chèo, trống lân nổi lên. Đại diện Nghiệp đoàn đến nói chuyện với công
nhân. Nội dung là: "Tại sao đời ta khổ cực?", "Chúng ta phải
đồng tâm hiệp lực thế nào để đòi quyền sống?". Mấy ngàn công nhân đều như
một hưởng ứng sôi nổi. Nhân đó, một đồng chí trong chi bộ trương cờ búa liềm
lên. Đây là lần đầu tiên lá cờ ra mắt công khai trước đông đảo bà con trong đồn
điền. Anh em công nhân trầm trồ nhìn ngắm lá cờ. Màu cờ đỏ rực như bầu máu nóng
sôi sục của anh em. Chiếc búa và lưỡi liềm vàng đặt lên cờ chính là vật dụng
hàng ngày của anh em rồi. Đó chính là lá cờ
của những người vô sản.
Bọn chủ đã
đánh hơi thấy. Chúng tung bọn tay chân xuống dò la tin tức. Nhưng mấy thằng mật
thám này bị thanh niên Xích vệ đội tóm được, gán cho đủ thứ tội ăn cắp, ghẹo
gái để có cớ mà nện hợp lý. Chúng bị nện những trận đòn nhừ tử.
Qua ba ngày
Tết, Nghiệp đoàn thông báo lệnh bãi công trong anh em.
Sáng mồng Ba
Tết, bọn Tây rúc còi mỏi mồm nhưng công nhân không ra điểm danh. Bọn cai Tây
sục sạo định thúc anh em đi làm, nhưng đến đâu chúng cũng bắt gặp những ánh mắt
quyết liệt. Chúng đâm sợ, rút cả về nhà Chủ nhất.
Bấy giờ có
một thằng mật thám, quê ở Bắc Ninh làm y tá ở làng số 2. Thằng này đang lởn vởn
nghe ngóng bị anh Lự bắt gặp, anh Lự nện luôn. Thằng này vùng bỏ chạy, lập tức
Lự đuổi theo. Bọn Tây thấy động ùa cả ra. Chúng túm lấy Lự rồi giam lại.
Anh em được
tin, liền thông báo cho các làng khác biết. Lập tức làn sóng căm phẫn ầm ầm
trào dâng. Tất cả mấy nghìn công nhân đùng đùng kéo lên Sở. Anh em hò la đòi
thả ngay anh Lự.
Su-ma-nhắc
đóng cửa không dám ra. Anh em vây vòng trong vòng ngoài hô la rầm trời. Suốt
buổi chiều hôm ấy, qua một đêm nữa, đến sáng hôm sau (mồng Bốn tết) anh em vẫn
siết chặt hàng ngũ. Đội xích vệ cắt người canh gác, còn bao nhiêu đều nằm ngay
sân đồn điền ngủ để giữ sức. Các làng số 9, số 10 ở xa nên mãi 8 giờ sáng mới
kéo đến. Tin đấu tranh lan đi. Tiếng trống đổ hồi thúc vang truyền từ làng này
sang làng khác.
Bão đã nổi
dậy ở Phú Riềng rồi! Năm nghìn công nhân lao khổ đã đứng lên. Tất cả vây tròn
lấy dinh cơ nhà trại của bọn chủ. Không khí đấu tranh sôi sục ấy khiến cho
Su-ma-nhắc hoảng sợ xanh mắt. Nó gọi cho đồn binh Phú Riềng mang lính đến giải
vây.
Mười giờ sáng,
một thằng đội Tây dẫn hai mươi lăm lính khố đỏ tiến vào khu vực đồn điền. Lúc
ấy, đoàn anh em ở các làng số 2, số 3 mới kéo đến. Bọn lính ngăn đoàn biểu tình,
thằng đội Tây giơ súng đe dọa:
- Đứng lại
ngay! Chúng mày làm loạn đấy à?
Tốp phụ nữ đi
đầu cứ tiến lên, thằng Tây hô tiếp:
- Tất cả giải
tán, không quan lớn bắn! Phải nghe quan lớn!
Nhưng chẳng
ai đếm xỉa lời dọa dẫm ấy. Họ cứ rầm rập xông thẳng đến. Khí thế mạnh mẽ. Thằng
Tây hô lính bắn chỉ thiên để đe dọa. Nghe tiếng súng anh em hăng lên. Người thì
bốc cát ném vào mặt bọn lính, người thì dùng gậy đánh nhau với bọn chúng. Có
chị rất hăng quơ tay ôm ngang lính, vật nó ngã kềnh, cướp lấy súng. Thằng đội
Tây giơ súng chĩa thẳng vào đoàn người định bắn, nhưng một đội viên Xích vệ nhảy
ngay tới nện cho nó một cán cuốc, gãy tay. Nó la ầm lên:
- Thôi thôi,
đừng đánh quan lớn! Quan lớn không bắn nữa.
Thế là những
thằng còn lại ù té chạy. Chúng chạy như vịt ra xe hơi về thẳng Sài Gòn. Anh em
hăng lên xông thẳng đến tòa nhà mà bọn chủ đang nấp trốn, đập cửa rầm rầm.
Su-ma-nhắc sợ quá phải mở cửa ra điều đình. Lúc này, anh em yêu cầu đồng chí
Phu phải tránh mặt và cử hai đồng chí Tạ, Hồng đưa yêu sách đã định từ trước.
Nói điều nào Su-ma-nhắc chấp nhận ngay điều ấy. Biên bản được ký kết. Các đại
biểu giơ cao tờ biên bản báo cáo kết quả điều đình thắng lợi với toàn thể anh
em công nhân. Tiếng hò reo ầm vang khắp ngả. Trước cảnh tượng này, bọn chủ cúp
đầu, náu kín trong nhà.
Từ Sở đồn
điền của bọn chủ, anh em tổ chức biểu tình tuần hành trong khắp đồn điền. Các
đồng chí đảng viên, các ủy viên chấp hành nghiệp đoàn đi đầu, liền kề là đoàn
Xích vệ đội vác bảy khẩu súng vừa tước được của lính và hơn mười khẩu súng bắn
chim tịch thu của Sở, đi hai bên hộ vệ cho đoàn biểu tình. Chốc chốc lại nã
"đoàng" một phát lên trời.
Ngọn cờ đỏ
búa liềm phấp phới trên đầu đoàn biểu tình. Đoàn người rầm rạp kéo đi dài như
vô tận
Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian!
Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...
Bài “Quốc tế
ca” vang lên hào sảng, kiêu hãnh. Đoàn biểu tình kéo về làng số 3, ở đây có một
nhà máy cưa khá lớn, chung quanh có hàng rào chắc chắn. Những tên xu-vây-dăng Tây
hy vọng rằng trốn vào đây thì sẽ thoát chết trước cơn bão táp đang nổi lên dữ
dội. Nhưng chúng không biết rằng ở đây phong trào công nhân rất mạnh. Người
lãnh đạo làng số 3 là đồng chí Doanh. Một số anh em được bố trí ngầm trong nhà
máy cưa. Khi đoàn biểu tình tuần hành kéo tới, bọn xu Tây hoảng sợ. Chúng có
súng nhưng không dám bắn. Sợ bắn thì cũng chết với quần chúng.
Cổng nhà máy
khóa chặt, anh em công kênh nhau leo qua rào. Lúc ấy, một số đồng chí bí mật ở
lại xưởng cưa đã lấy gỗ làm vũ khí đập cho mấy thằng xu Tây một trận. Cổng được
mở khóa, cửa bật tung, đoàn người tràn vào nhà máy như thác. Bọn Tây sợ quá
phải giơ tay xin hàng. Anh em tước luôn được hơn mười khẩu súng.
Thế rồi đoàn
chia làm mấy cánh. Cánh đi chiếm vườn ươm cây, vì vườn ươm có kho dụng cụ chứa
khá nhiều búa nguyệt và dao rựa dùng làm vũ khí được. Cánh thì chiếm kho gạo...
Anh em kéo cờ búa liềm, giơ súng, giơ búa vừa đi vừa hô khẩu hiệu, chốc chốc
lại hát vang bài “Quốc tế ca” và nổ vài phát súng thị uy.
Đến chiều,
đoàn người kéo về bàn giấy của Sở. Anh em thừa thắng, xông ngay vào chiếm luôn
bàn giấy.
Lúc này, cả
đồn điền Phú Riềng đã thuộc về tay anh em công nhân. Bọn Chủ nhất, chủ nhì, cai
ta, cai Tây đã chuồn đâu mất sạch. Nhà cửa, bàn giấy của chúng trống không. Bao
nhiêu công-tơ-ra bị anh em vác cả ra sân, nổi một đống lửa, đốt tất. Ngọn lửa
bốc cao ngùn ngụt.
Say sưa! Đến
tối mịt, mọi người mới sực nhớ từ sáng đến giờ chưa ai có hột cơm vào bụng. Thế
là mở cửa kho lấy gạo, lấy cá ra. Bò của đồn điền vật luôn một lúc mấy con. Bộ
phận làm cơm, bộ phận chuẩn bị tiết mục văn nghệ. Anh em mở tiệc mừng Tết chiến
thắng thật linh đình.
Khi anh em
vui say thì chi bộ nhóm họp đặc biệt trong một căn lều nhỏ ở sau làng số 3. Anh
em trong chi bộ có điều kiện bình tĩnh lại để nhận định tình hình sáng suốt
hơn. Cuộc họp rất găng, tiến hành suốt đến sáng. Bởi có hai chủ trương trái
ngược hẳn nhau.
Một là nếu
địch đem quân lên khủng bố thì đánh trả. Ta sẽ ngả cây, chặn các nẻo đường vào
đồn điền. Những nơi xung yếu, quan trọng sẽ bố trí Xích vệ đội mang súng ra trấn
giữ. Còn bao nhiêu thì đảm nhiệm việc tuần phòng canh gác kho lương, canh gác
máy điện, máy nước. Còn lại, anh em tự động chia nhau chuẩn bị khí giới. Có
người khâu những túi tro bếp trộn ớt bột để sẵn sàng ném vào mặt địch; người
tra lại cán búa cho vững. Xích vệ đội thì dạy nhau bắn súng. Anh em nghĩ rất
đơn giản và rất anh hùng "Sống chết có cần gì", "Mai nó lên ta
cứ đánh. Đánh là đánh đến cùng!" Chủ trương này trùng với chiều hướng tâm
lý đại đa số anh em công nhân lúc ấy.
Chủ trương
thứ hai thuộc thiểu số, trong đó có đồng chí Phu. Với cương vị Bí thư chi bộ,
đồng chí Phu nói: "Đảng chưa có chỉ thị cho cướp chính quyền. Nếu cướp,
phải cướp cùng một lúc, cùng khắp mọi nơi trong nước. Như vậy địch sẽ không ứng
cứu được cho nhau. Bây giờ, Phú Riềng nổi dậy riêng rẽ, địch sẽ đem quân lên
khủng bố, đàn áp. Tất sẽ đổ máu và thất bại. Vậy ta phải chuyển hướng đấu tranh
để tránh tổn thất".
Chủ trương này
lúc mới đưa ra đã bị phản đối kịch liệt. Đồng chí Phu nhấn mạnh đến việc bảo vệ
lực lượng, bảo vệ đời sống tính mệnh của năm nghìn con người công nhân ở đồn
điền Phú Riềng. Đồng chí Phu nói: "Đế quốc và tàn bạo chỉ là một. Một khi
đã tập trung được lực lượng, chúng sẽ không ngần ngại gì mà chẳng tiêu diệt cả
năm nghìn con người mà trong tay hầu như không có vũ khí ". Tổn thất đau
xót phải lấy sách cổ ra để giải thích thêm: "Biết mình, biết người, trăm
trận trăm thắng" và "Người anh hùng phải biết tiến, biết thoái. Tiến
có thể đánh, thoái có thể giữ".
Trải qua một
đêm đấu tranh nội bộ. Cuối cùng chi bộ nhất trí chuyển hướng đấu tranh.
Chấp hành chỉ
thị của chi bộ, Xích vệ đội mang toàn bộ số súng tước được của địch lên dựng
một dãy ở trước bàn giấy của Chủ nhất. Nghiệp đoàn chuyển một số gạo, muối,
cá... cất dấu ra ngoài rừng để phòng địch hãm lương. Công nhân thì giải tán đâu
về làng đó. Cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục nhưng chỉ bãi công mà thôi.
Quả nhiên
theo dự đoán, bọn địch bắt đầu huy động lực lượng đối phó anh em công nhân từ
chiều mồng Năm Tết. Chiều hôm ấy, hai chiếc máy bay bà già vè vè lượn mấy tiếng
đồng hồ trên không phận Phú Riềng vừa để dò xét tình hình vừa để ra oai với anh
em công nhân.
Ngày hôm sau,
Công sứ Biên Hòa Mác-ty, Thống đốc Nam
Kỳ Cơ-rô-hây-me, Phó công sứ Vin-mông và Chánh mật thám Đông Dương Ác- nu đi xe
bọc sắt dẫn theo hai mươi xe ca-mi-ông, chở ba trăm lính Lê dương và năm trăm
lính khố đỏ kéo lên Phú Riềng.
Cách địa phận
đồn điền vài cây số, chúng xuống xe, dàn quân, súng lăm lăm, chia mấy ngả kéo
ập vào. Nhưng chúng bất ngờ vì đi đến đâu cũng chỉ thấy công nhân sinh hoạt như
thường. Anh em rủ nhau xếp hàng, ngồi trật tự nghe đại biểu của mình đấu lý với
bọn chủ.
Thống đốc Cơ-rô-hây-me quát hỏi anh em:
- Tại sao
quan lớn phải mang lính, mang súng lên đây làm gì, chúng mày có biết không?.
Đồng chí Hồng, bấy giờ là đại biểu công khai, đứng ra đáp:
- Chúng tôi
không được biết!
- Các quan
phải mang lính lên vì chúng mày làm loạn!
- Đâu có!
Chúng tôi làm loạn bao giờ?
- Chủ hãng
bảo rằng chúng mày đánh ông đồn, đánh lính, cướp súng mà lại!
- Chủ hãng
nói không đúng! Chính ông ta sai người đánh đập chúng tôi chết nhiều lắm. Chúng
tôi kêu Nhà nước soi xét, bảo chủ hãng đừng đánh đập chúng tôi, đừng cúp lương
chúng tôi, kẻo chúng tôi khổ lắm.
- Chúng mày kêu cứ kêu, sao lại dám ở nhà không đi làm?
- Chúng tôi
kêu mãi rồi, ông chủ không nghe, chúng tôi đói, mệt quá không ra săng-chiê
được!
Thằng Chánh
mật thám Ác-nu sừng sộ hỏi:
-
Chỉ láo! Thế tại sao chúng mày cướp súng của
các quan?
-
Đâu có! Các ông lính chẳng hiểu sợ cái gì, quẳng súng lại. Súng vẫn dựng đây
kia!
Anh em chỉ
mấy khẩu súng xếp dãy ở chân tường. Bọn thực dân chẳng biết làm thế nào. Chúng
tưởng mang binh hùng tướng mạnh lên ăn sống nuốt tươi Phú Riềng, không ngờ lại đấm
vào bị bông... Cuối cùng mấy tên đế quốc đành phải bảo thông ngôn nói với anh
em:
-
Quan lớn bảo chúng mày về làng. Mai sớm đi làm tử tế, chủ sẽ đối đãi tốt.
Số quân Lê
dương và khố đỏ sau đấy phải rút khỏi đồn điền vì anh em công nhân bí mật tháo
cánh quạt máy bơm, không có nước dùng cho một số đông quân đóng ở giữa rừng. Cuối
cùng, chúng phải rút hết về Sài Gòn.
Sau đó, bọn
chủ cho mật thám đi dò la dấu tích và đã tìm ra tổ chức chi bộ và Nghiệp đoàn,
chúng biết đấy là đầu não của cuộc bãi công. Muốn phá bãi công thì phải đánh
vào đấy. Thế là chúng lần lượt bắt được các đồng chí Tạ, Hồng, Hòa.
Sau
đó đến lượt đồng chí Phu, chúng tóm được ngay giữa lúc đang tuyên truyền cho mấy
anh lính người Thượng. Trong túi đồng chí Phu lúc ấy có cả truyền đơn in cờ búa
liềm. Chúng dò được cả cơ quan in ấn ở ngoài rừng, gồm cả giấy, mực và khuôn
thạch. Liền đó, chúng bắt tiếp tục hàng trăm anh em khác.
Cùng
với việc trấn áp bắt bớ cán bộ và quần chúng tích cực của phong trào, bọn chủ
cũng phải nhượng bộ một số yêu sách đã ký kết như phát gạo tốt, thuốc men, chữa
bệnh ở trạm xá tốt hơn, giải quyết những người mãn hạn công-tơ-ra được trả về
quê quán.
Thế
rồi chúng mở phiên tòa tại Biên Hòa, xử án những người bị bắt. Phải nói vụ án Phú
Riềng là vụ lớn, xử một lúc hàng trăm người. Nó là một trong những vụ đầu tiên
xử những người cộng sản.
Những
anh phu phen chưa thành án, nên chưa có quần áo mang số tù. Mỗi người chỉ còn
cái quần cụt, một manh áo rách. Khi bị bắt, giằng nhau với lính, áo đã tả tơi.
Vào tù toàn ở trần. Gần đến ngày xử, bọn Tây vứt cho một mớ quần áo rách. Chúng
nghĩ rằng, anh em ra tòa với vẻ bề ngoài như thế sẽ rất tiều tụy và chẳng còn
ra cái tư thế gì nữa.
Đoán
được thủ đoạn của chúng, anh em bàn với nhau: "Thế nào kỳ này ra tòa, dân
chúng đi xem rất đông. Ta phải làm thế nào để bà con mến phục". Anh em bảo
chúng đưa quần áo thật chỉnh tề thì mới mặc. Còn nếu không, có thế nào thì mặc như thế ấy. Điều cốt nhất là anh em nhắc nhở nhau giữ cho thái độ đường hoàng,
cứng cáp.
Đến
ngày xử, hơn một trăm anh em xếp hành tư đi từ đề lao ra tòa. Trước mặt có lính
dẫn đầu, sau lưng có lính đoạn hậu, hai bên có lính áp tải, nhưng anh em tù đi
rất mạnh bạo, mỗi người chỉ mặc độc chiếc quần cụt. Anh em vừa đi vừa hát vang
những bài ca đã học được ở Phú Riềng. Tiếng hát vang đường phố. Bà con hai bên
hè đường nhìn rơi nước mắt. Có một cụ già đứng trên hè, chắp tay vái anh em,
miệng mếu máo: "Chao ôi! Các ngài vì nước làm việc phải chịu khổ thế
này!". Nghĩ thấm thía rồi thấy mình hăng lên. Ra đến tòa, viên Chánh án
hỏi đồng chí Phu:
- Các anh bỏ việc không chịu làm là sai hợp
đồng và làm rối trị an.
Đồng
chí Phu đáp:
-
Chúng tôi làm rất đúng. Chính Công ty Mi-sơ-lanh làm sai. Họ đánh người, họ cho
ăn đói, họ giết người vô tội vạ. Chính họ là những người làm trái pháp luật.
Cuối
cùng bọn quan tòa cứ tuyên án bừa đi. Người năm năm, người ba năm tù. Anh em
phản đối ầm ầm. Được tin các đồng chí ở Nhà máy cưa Biên Hòa đã rải truyền đơn
trong nhà máy phản đối về việc xét xử bất công với công nhân Phú Riềng.
Vụ
án này, chúng phải đưa ra Tòa đại hình ở Sài Gòn.
Tại
phiên tòa, viên Chánh án là người thành phố Pông-đi-sê-ri, một thành phố thuộc
địa của Pháp ở Ấn Độ. Y hỏi đồng chí Phu:
-
Các anh làm rối cuộc trị an, các anh có biết tội gì không?
Đồng
chí Phu cãi ngay:
-
Chúng tôi làm sao mà có tội? Các ông xem tôi mặc quần áo rách rưới, ăn uống đói
khát thế này đây! Công ty Mi-sơ-lanh không làm đúng hợp đồng. Họ trả lương
thiếu. Họ đánh đập chúng tôi. Họ có tội chứ
chúng tôi không có tội.
-
Ờ được, về việc đánh đập công nhân, Công ty Mi-sơ-lanh sẽ sửa đổi. Nhưng ai xui
các anh nổi loạn ở Phú Riềng?
-
Ai xui? Chính nước Pháp xui chúng tôi! Bà Gian-đa xui chúng tôi! Tôi xin hỏi
ông, ông là người Ấn Độ, ông có muốn nước Ấn Độ độc lập không?
Đồng
chí Phu hỏi thẳng vào mặt viên Chánh án, làm cho y bị chạm nọc, mặt tái tím
lại. Không khí phiên tòa lặng đi. Chánh án lúng túng rút khăn lau mồ hôi. Đến
khi tuyên án, viên Chánh án đã lánh mặt.
Đồng
chí Phu bị án năm năm đày ra Côn Lôn.
Bà
con Sài Gòn đi dự phiên tòa rất đông. Họ kinh ngạc khi thấy anh em ở tòa đi về
đề lao một cách trật tự, hiên ngang, vừa đi vừa hát vang: "Cực quá rồi,
các bạn thợ thuyền ơi...". Hết hát lại hô khẩu hiệu. Cả một đoàn người cởi
trần, quần xà lỏn nhưng kéo qua phố xá Sài Gòn với một khí thế đoàng hoàng, mặt
ngẩng cao, không sợ sệt, không khúm núm.
* *
*
Côn
Đảo – trường đại học lớn
Tháng 3 năm 1930
Một
buổi sáng, chiếc tàu Ác-măng-rút-xô đưa đoàn tù vừa qua Ô Cấp thì gặp tàu
Clôt-sáp. Ngay trên cột buồm tàu Clôt-sáp lá cờ đỏ búa liềm đang ngạo nghễ phần
phật bay trước gió.
Khi
hai con tàu sát gần nhau thì anh em bên tàu Clôt-sáp bị dồn sang tàu Ác-măng-rút-xô
để cùng ra Côn Đảo. Anh Phu tìm gặp người
trương cờ búa liềm để biểu lộ lòng
khâm phục. Tưởng ai xa lạ, thì ra anh
Tống Văn Trân!
Hai
anh em ôm chầm lấy nhau. Không khí trên tàu trở nên ồn ã, sôi nổi. Tất cả mọi
người cùng ùa lại nắm chặt tay nhau, chào hỏi vồ vập. Những khuôn mặt sạm màu
nắng gió, những ánh mắt sáng lên niềm tin như nhắc nhau cùng sẵn sàng bước vào
trận tuyến mới. Lá cờ đỏ búa liềm vẫn phần phật tung bay trên đỉnh cột buồm,
mặc cho con tàu như gầm lên xé sóng lao về phía đảo ngục.
Gặp
nhau, anh Trân kể lại cho anh Phu: Tháng 10 năm 1929, anh Trân trực tiếp lãnh
đạo cuộc đấu tranh kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, báo hiệu một cao trào cách
mạng mới. Hôm ấy, trưa mồng 7 tháng 11, giữa lúc tan tầm các nhà máy, trước Nhà
kèn vườn hoa Nam Định, một công nhân treo cờ đỏ búa liềm và diễn thuyết kêu gọi
kỷ niệm ngày hy vọng của nhân dân lao động toàn thế giới. Tiếng hô khẩu hiệu
vang khắp một vùng trung tâm thành phố. Tên Chánh sứ Sa-pu-la dẫn bọn mật thám chạy
đến, hắn giằng lấy lá cờ đỏ và cầm búa giáng vào đầu người diễn thuyết. Máu
công nhân đã đổ! Người chiến sĩ công nhân giật lại lá cờ, ôm riết vào ngực và
không ngớt lời thét chửi. Lập tức cả khối người ào lên gầm thét.
Trước
khí thế của một phong trào mới hết sức lẫm liệt, bọn đế quốc giật mình, vội
vàng đối phó. Chúng mở cuộc truy lùng, bắt bớ ráo riết. Nhiều đồng chí lãnh đạo
đã sa lưới của chúng. Anh Tống Văn Trân bị bắt ở Sở Thượng. Cha con tên Cửu
Khảo vừa ôm được anh, anh liền rút súng chĩa lại đằng sau, bắn. Bị bắt quả tang
có súng trong tay, chúng lập tức đánh anh rất dã man rồi đem nhốt vào xà lim
đặc biệt của nhà pha Nam
Định.
Thành
Nam
mở tòa xử án, tên Chánh sứ Sa-pu-la làm Chánh án. Sau khi tuyên án Tống Văn Trân
bị án tử hình, anh đã đứng phắt dậy chỉ vào mặt bọn tay chân đế quốc, lên án.
Anh rút từ trong túi một lá cờ đỏ búa liềm giương lên, rồi hô vang khẩu hiệu:
"Đả đảo đế quốc Pháp!", "Cách mạng Đông Dương thành công muôn
năm!".
Anh bị giam ở xà lim án chém ở nhà pha Hỏa Lò, Hà
Nội.
Ba
tháng sau, Tòa phúc thẩm giảm từ tội tử hình của anh xuống khổ sai chung thân,
đày đi Côn Đảo.
Tàu
cập bến Côn Đảo vào một đêm mưa tầm tã. Biển tối đen. Ánh sáng đèn điện trên
đảo đỏ như pha máu. Trên cầu tàu trơn như đổ mỡ, roi cặc bò của bọn cai ngục
vút xuống như mưa lên lưng, lên mặt các chiến sỹ cách mạng, nhưng họ vẫn hát,
càng hát. Bài “Quốc tế ca” vang lên. Họ hát như Thiên thần đi vào địa ngục. Họ
ngẩng cao đầu thẳng bước vào trận đấu tranh mới.
Một
trong những người đi đày ấy lấy máu vẽ búa liềm lên ngực. Máu khô nâu, búa liềm
hiện lên càng rõ nét. Người mang búa liềm trên ngực ấy lại vẫn là Tống Văn
Trân.
Đặt
chân lên Côn Đảo, ai nấy còn say sóng, chếnh choáng, chúng đã phân anh em ra
ném vào các banh. Banh 1 dành cho loại tù chính trị "nguy hiểm", có
xà lim hẹp như quan tài đá, tối như bưng, thiếu dưỡng khí đến ngạt thở. Người
tù phải lom khom sờ soạng. Cùm sắt gắn với sàn xi măng nhớp nháp, sập cứng ngay
hai bàn chân lại. Tới bữa cơm, lính ngục mở khóa, hé cửa ném vào một bát cơm
hẩm với con cá mắm thối. Chúng quẳng cho mỗi người một cái ống bơ để đái ỉa
luôn vào đấy.
Tuy
không bị lùa vào banh 1, nhưng đồng chí Phu lên tiếng phản đối sự đày ải cực
hình của bọn cai ngục đối với những đồng chí đảng viên trung kiên. Vậy là chúng
nhốt đồng chí Phu cùng hai đồng chí nữa vào “hầm tối”. Một căn hầm hẹp chỉ nhốt
nổi từ một đến ba người. Cũng sàn láng xi măng, cùm gắn liền nền để cùm hai
chân người tù, vách hầm sơn hắc ín. Cửa hầm bằng sắt, đóng vào thì hầm tối như
bưng. Bị nhốt liền ba tháng trong “hầm tối”, tới khi một đồng chí bị chết thì chúng
mới thả hai người ra “chuồng bò” đốn củi.
Được
trở về với thiên nhiên bao la với trời xanh, rừng cây xanh, suối mát, được thở,
hít không khí trong lành, được gặp các đồng chí bạn tù người Nam Bộ cùng vào
rừng đốn củi, đồng chí Phu nhanh chóng bắt tay vào công việc.
Một
buổi chiều, sau khi đốn củi về, đồng chí Phu tâm sự với anh em bên bờ suối.
Bằng giọng rủ rỉ anh nói: "Giờ đây chúng ta là những tù khổ sai, được dễ thở
hơn những đồng chí trong ngục tối. Trên đảo ngục này ngày nào cũng vài ba người
chết, không chết vì đòn roi thì cũng chết về bệnh tật. Nghĩa địa Hàng Dương đã
có tới hàng ngàn ngôi mộ những người tù cộng sản. Các đồng chí lãnh đạo trung
kiên của Đảng, đang bị cấm cố. Sức khỏe các đồng chí yếu lắm. Tôi nghĩ chúng ta
nên thành lập ngay Hội Tương tế. Ngoài việc đoàn kết tranh đấu với chúa đảo,
còn yêu cầu hàng ngày phải cho các đồng chí ngồi cấm cố được ra sân cỏ thở hít
khí trời, được tắm rửa, được đi lao động khổ sai... Chúng ta cần phải có quỹ
Hội dùng vào việc thăm hỏi, động viên những anh em đau yếu hoặc bị đánh đập dã
man. Nhưng quỹ Hội lấy ở đâu, trong khi chúng ta chỉ có hai bàn tay? Cái trước
hết là phải có quỹ Hội, tôi xin các đồng chí chúng ta cùng bàn".
Anh
em sôi nổi, mỗi người một ý đóng góp. Một đồng chí quê ở Bạc Liêu đứng lên móc
túi ra một cái gói bọc miếng vải đã rách, anh dõng dạc nói: "Tôi đây, có
món tiền của người nhà từ trong đất liền gửi ra. Tôi nghĩ tình đồng chí sống
chết có nhau, tôi xin góp cả vào quỹ Hội". Mọi người im lặng giây lát rồi
lần lượt đứng dậy lận lưng mang đến đồng bạc cuối cùng, xin nộp tất vào quỹ.
Hôm
sau, khắp cánh rừng già Côn Đảo vang lên tiếng chặt cây, bẻ củi của anh em tù
khổ sai. Họ làm khỏe, làm thật nhanh để có thời gian đi săn bắt thú rừng. Cứ
mỗi gánh củi về banh, anh em đều có những con cheo, con nhím, con trăn đem bán
cho những tù thường phạm để lấy tiền sung quỹ Hội.
Bọn
chúa đảo thấy vai trò của những tù cộng sản đã ảnh hưởng mạnh tới các loại tù
nhân trên đảo. Vì thế chúng tống những người cầm đầu phong trào xuống “hầm xay
lúa”.
Một
chiều chạng vạng, có đoàn tù khổ sai gồm các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Văn
Phu... cùng hơn mười đồng chí Nam Bộ bị chúng lùa vào đây. “Hầm xay lúa” là nơi
đày đọa những người tù "bất trị", "nguy hiểm". Hầm có một
khám giam, có bệ xi măng cho tù nằm và một gian xay lúa, bắt tù làm khổ sai. “Hầm
xay lúa” có năm cối xay làm bằng vỏ thùng rượu loại ba trăm lít cưa đôi chứa
đầy thóc. Phải sáu người ra sức kéo giằng, cối xay lúa mới chuyển. Cứ hai người
bị xích chân làm một. Sáu người một cối, gò lưng đẩy cối suốt từ 6 giờ sáng đến
5 giờ chiều trong không khí ngột ngạt, bụi thóc, bụi cám phủ đẩy người, xộc vào
mắt, vào mũi nhức nhối, khó chịu. Tối đến, anh em lại bị tra chân vào cùm. Năm
người ngồi thẳng hàng, duỗi thẳng chân, chiếc cùm sắt dài năm mét sập xuống rồi
khóa xoạch lại.
Một
lần, đồng chí Phu vừa bị ốm dậy, chúng bắt anh đi chuyển thóc từ ngoài vào hầm.
Bao thóc nặng đè lên vai, anh chệnh choạng bước đi rồi lảo đảo khụy ngã. Bao
thóc đổ tung tóe xuống đường. Lập tức tên cai ngục mắt đỏ ngầu, hầm hầm bước
tới, hắn vung chiếc roi cá đuối vút như mưa xuống đầu anh. Nhanh như chớp đồng
chí Tôn Đức Thắng nhào tới, ôm lấy người đồng chí Phu để chịu đòn thay. Sau
trận mưa roi, tên cai ngục đứng giạng háng, chống nạnh để thở. Tôn Đức Thắng đỡ
anh Phu đứng dậy, đồng chí vuốt những vết máu đang chảy trên đầu, trên mặt mình
rồi lừng lững bước đến trước mặt tên cai ngục, dõng dạc nói: "Anh và chúng
tôi cùng dòng máu con dân nước Việt. Cớ sao anh lại có hành động dã man với
đồng loại như thế? Thịt da ai cũng vậy. Người ta ốm lẽ ra anh phải để cho người
ta nghỉ. Tôi thiết nghĩ anh nên đem sự hung hãn với chúng tôi giáng vào đầu kẻ
thù ngoại bang đang giày xéo dân ta chứ? Cái gì cũng phải trả giá đấy. Anh suy
nghĩ đi!”. Mặt tên cai ngục bệch ra, hắn lẳng lặng, bước đi nơi khác.
Đồng
chí Tôn Đức Thắng tuy không nhiều lý luận nhưng cảm nhận được lẽ phải, cảm nhận
được chân lý. Lúc này, đồng chí tham gia Ban Cứu tế, giao liên. Do thạo tiếng
Pháp nên chi ủy phân công vận động binh lính Pháp. Bọn gác ngục Pháp nổi tiếng
hung bạo phải nể. Đồng chí đã tranh thủ nhờ họ mua sách báo tiến bộ và sách
kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chuyển vào các khám tù, vào xà lim cấm cố.
Đồng chí đi đến đâu là đem đến một không khí đoàn kết thương yêu và giúp đỡ lẫn
nhau. Anh em mến phục người đồng chí đã từng kéo lá cờ đỏ búa liềm trên bờ biển
Hắc Hải năm 1917.
Hết
sáu tháng ở “hầm xay lúa”, anh em được ra sở tải. Không ngờ ở đây đồng chí Phu
được gặp lại các đồng chí Ngô Gia Tự, Tống Văn Trân, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp,
Trần Văn Giàu, Lê Văn Lương, Phạm Văn Đồng... Anh vui mừng khôn xiết, bởi được
cùng sống, cùng hoạt động với các đồng chí đàn anh trong chi bộ nhà tù này.
Thấy
anh Phu xuất hiện, anh Ngô Gia Tự tươi cười bước tới, nắm chặt tay rồi nói một
cách chậm rãi và chắc nịch:
-
Này Phu ạ, chúng nó đẩy mình ra đây để cho mình chết. Nhưng phải chiến đấu với
kẻ thù để mà sống. Sống được, giữ vững khí tiết là chiến thắng.
-
Vâng, không thể bó tay chờ chết, anh ạ! - anh Phu trả lời - Chúng tôi sẽ noi theo
anh.
Giờ
đây, anh Phu được gặp lại anh Tống Văn Trân, anh Ngô Gia Tự, hai người thầy đã
trực tiếp giác ngộ anh vững bước trên con được tranh đấu cho sự sống còn của
giai cấp.
Để
ngăn chặn sự tuyên truyền, ảnh hưởng của các chiến sĩ tù cộng sản tới các lính
gác, chúng cho toàn lính Cao Miên, lính Âu - Phi đứng gác. Như vậy càng có lợi
cho anh em. Cứ sau một ngày đi làm khổ sai về, ban đêm anh em lại chong đèn hội
họp. Rồi đây, các đồng chí sẽ lần lượt trở về đất liền để hoạt động nên trên
đảo ngục này. Anh Ngô Gia Tự đã chủ động đề xuất thành lập Đảng bộ nhà tù và
nêu rõ quan điểm "Phải biến nhà tù thành trường học. Bởi bất kỳ ở đâu,
chúng ta cũng có thể hoạt động cho cách mạng được".
Ý
kiến này được anh em nhất trí. Một đêm, anh em chong đèn mở hội nghị đại biểu
chi bộ các khám. Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Đảng uỷ và thành lập các ban: Chính
trị tư tưởng, Văn hoá, Đối ngoại. Đồng chí Phạm Văn Phu trúng vào Ban Chấp hành
Đảng uỷ, phụ trách giao thông kinh tế. Các lớp học chính trị, văn hoá được mở
ra. Giấy, bút, mực, tài liệu học tập đều có các đầu mối bí mật (là anh em thủy
thủ và binh lính giác ngộ) chuyển vào từ đất liền. Trong tù đã có một "thư
viện" bí mật cung cấp sách báo, các đồng chí chuyền tay nhau đọc. Các đồng
chí Ngô Gia Tự, Hà Huy Giáp, Trần Huy Liệu dịch ngay trong banh các cuốn “Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản”, “Tư bản luận”, “Nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lê-nin”, rồi cả “Triết
học Chống Đuy-rinh”...
Người
dạy thì có thừa, vì bạn tù nhiều người đã qua học ở Pháp, ở Nga. Đồng chí Trần Văn Giàu từng học ở
Đại học Phương Đông được phân công dạy “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin”, “Duy vật biện
chứng”, “Duy vật lịch sử”... Học viên ngồi bệt xuống sàn nhà, chăm chú nghe
giảng rồi nhập tâm. Đồng chí Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu dạy cho anh em “Lịch
sử nước Pháp”, “Lịch sử Trung Hoa”, “Truyện Thủy Hử”, “Truyện Kiều”...
Ngục
tù Côn Đảo không chỉ là chiến trường mà còn là trường Đại học Cách mạng được tổ
chức chặt chẽ, có chương trình, có kiểm tra. Việc sống, chiến đấu, học tập đã
cuốn hút các chiến sĩ Côn Đảo đến say mê, át cả sự tàn khốc của ngục tù đế quốc.
Trường
Đại học nhà tù Côn Đảo đã trang bị lý luận sắc bén cho những chiến sỹ cách mạng
đang ngồi tù, chuẩn bị mai đây bước vào hoạt động một cách vững vàng.
* *
*
Trong
đất liền phong trào đã hồi phục và bắt đầu hoạt động mạnh. Những tin tức mới đã
thôi thúc Đảng bộ ngoài đảo khẩn trương cử người về đất liền liên lạc với Đảng
tham gia lãnh đạo phong trào.
Lúc
này, đồng chí Phạm Văn Phu ở trong Ban lãnh đạo, phụ trách tài chính và giao
thông, đứng ra lo toan công việc cho một số đồng chí vượt Côn Đảo. Những người
được cử chọn đi đợt này có anh Tống Văn Trân, anh Tạ Uyên, Nguyễn Hữu Tiến... Vấn đề đặt ra là nhất thiết phải
đóng thuyền, mà phải là thuyền gỗ. Vì kinh nghiệm xương máu những chuyến vượt
Côn Đảo lần trước, hầu hết các đồng chí bị hy sinh giữa biển cả. Đồng chí Ngô
Gia Tự, một khối óc lớn của phong trào, ra khơi rồi cũng bị mất tích. Nguyên
nhân do các đồng chí dùng bè vượt biển, thường bị sóng đánh vỡ bè, hoặc bè trôi
không lái được. Rồi vượt đảo bằng thuyền tôn, khi thuyền ra khỏi bờ chưa xa,
gặp bãi san hô và có sóng lớn thuyền bằng tôn nhẹ quá bị lật...
Đã
ba lần, anh em trong khám làm lễ tưởng niệm những đồng chí hy sinh trên biển. Ấy
là những đêm cả khám tù im lặng. Anh em nằm yên mà lòng cồn cào tiếng sóng biển
ngoài khơi, tưởng tượng cảnh đồng chí mình với chiếc bè cô đơn, với tấm lòng
cháy bỏng cách mạng, vật lộn với gió bão, cảnh bè vỡ, các đồng chí ta vùng vẫy
trong những phút cuối cùng. Bên ngoài tường đá, tiếng sóng biển đổ ầm ào. Gió
biển lồng lộn rít qua mái tôn, lùa qua song sắt. Tiếng những cái thở dài đau
đáu, khe khẽ trở mình của những ai không kìm nén được... Những đêm tưởng niệm
trang nghiêm buồn bã, mà trầm mặc hùng tráng biết bao!
Giờ
đây, đồng chí Phu ngày đêm suy nghĩ. Phải đóng thuyền gỗ vượt đảo. Khó nhất vẫn
là đốn gỗ, cưa gỗ, xẻ gỗ. Thế rồi dao, cưa, tràng, đục ở đâu? Đồng chí Phu đem
công việc bàn với anh em tù thường phạm, được anh em nhiệt tình ủng hộ. Mấy hôm
sau không thiếu một thứ vật liệu, dụng cụ gì. Tất cả vấn đề phải giữ sao cho bí
mật. Đốn gỗ thì trên núi cao, Tây không thể biết được. Nhưng xẻ ván đóng thuyền
ở đâu cho không lộ, mà nơi đóng thuyền lại phải gần biển để tiện ra khơi. Cuối
cùng anh em cũng tìm được một địa điểm thuận lợi, kín đáo cho công việc đóng
thuyền.
Đảng
ủy đảo hết sức chú ý đến công việc, luôn luôn đòi hỏi báo cáo và chỉ thị kịp
thời lúc này. Lại vận động được một số lính Lê dương ra gác ngoài bãi biển.
Thuyền
đóng xong, anh Tống Văn Trân nhận nhiệm vụ và nhận địa điểm liên lạc khi về tới
đất liền. Các cơ sở trên đảo gửi đến gạo, muối, thịt khô, đường, sữa, thuốc men
và quần áo thường dân để cải trang.
Một
đêm trăng sáng cuối mùa xuân. Trăng đã đầy, nhìn biển trời đẹp lắm. Buồm kéo
lên, gió phần phật, thuyền phăng phăng lướt trên mặt biển.
Một
tháng sau, tin đưa ra từ đất liền: Đoàn anh Tống Văn Trân đã đi đến nơi về đến
chốn; Xứ ủy Nam Kỳ đã nắm được đầy đủ hoạt động của các chi bộ ngoài Côn Đảo.
* *
*
Trở về đất liền
Tháng 3 năm 1935
Chiếc
tàu Rô-đanh Hác-măng chở đoàn tù mãn hạn về cập bến cảng Sài Gòn. Sau năm năm
chịu mọi cực hình nơi địa ngục trần gian ngoài Côn Đảo, đồng chí Phạm Văn Phu
ung dung đặt chân lên “Hòn ngọc Viễn đông” hoa lệ và đầy bất trắc. Mật thám
chìm nổi đông như rươi. Nhất cử nhất động đều khó lọt khỏi những con mắt cú vọ
của bọn chúng.
Lúc
này, Sở Mật thám Nam Kỳ giao anh Phu cho một viên đồn trưởng cảnh sát cai quản,
nhà hắn ở không xa khu dân cư lao động bến cảng. Đó là khu của những người dân
tứ xứ, vô gia cư, vô nghề nghiệp, họ cùng tìm về đây làm cu-ly khuân vác, tối
đến người nằm vỉa hè, người chui rúc trong những khu nhà ổ chuột, chật chội
trên bãi sình lầy ven sông.
Riêng
anh Phu chúng cho đi làm ở Sở Tải để quản thúc. Vừa ra tù, sức còn yếu lắm, anh
xin đi đẩy xe than. Tiền công ngày chỉ mấy xu, anh phải chi tiêu tằn tiện mới
tạm đủ. Về đây, anh lại sống giữa những thân phận nổi chìm phiêu dạt. Ấy là
những con người hàng ngày phơi những tấm lưng trần nâu sậm, gồng mình lên, bốc
vác những bao tải gạo nặng quá sức, lặc lè lên xuống nơi cầu tàu, tưởng như đứt
hơi, đứt ruột để kiếm lấy đồng tiền công rẻ mạt.
Cứ ráo mồ hôi
là hết tiền. Bởi mỗi khi chiều về là họ lại ngất ngưởng trên chiếu rượu,
"đánh đổ" hết chai xị đế này đến chai xị đế khác. Cho đến khi không
còn biết mình là cái thằng nào rồi lè bè chửi đời, chửi cho cái số kiếp. Hoặc
nếu không say xỉn thì lại chụm nhau trong canh bạc, sát phạt thâu đêm để rồi
choảng nhau sưng đầu bể trán. Anh Phu thấy buồn cho những thân phận sống hôm
nay không cần biết có ngày mai.
Một chiều,
sau bữa cơm có ngấm chút men, một anh Hai Nam Bộ nằm khểnh trên manh chiếu
rách, vắt chân chéo kheo, đón gió nồm nam trên bờ sông Sài Gòn mà nghêu ngao
câu hát buồn tênh:
Vợ
con nhà là cái vợ con nhà
Không biết nghệ gì qua, gì qua
Tiền không có cho nó tiêu pha...
Thấy
có chút buồn ngồ ngộ, anh Phu hỏi:
- Chiều nay anh Hai có điều chi mà than thở dữ vậy?
-
Buồn thúi mồ, cực thúi mồ, hát lên đôi câu chơi vậy đó thôi, chú Ba.
- Nghe anh Hai cũng có vẻ cảnh ngộ đấy. Anh kể thử
coi?
-
Kể mần chi chú Ba. Cái kiếp mình ông trời bắt thế. Đù mẹ nó!
-
Anh Hai này, người ta thường nói: Đem nỗi buồn kể với bạn sẽ vơi đi một nửa.
-
Liệu chú Ba có thấu cảnh tôi không? - Anh Hai nhổm dậy vơ gói thuốc rê, cuốn
một điếu sâu kèn rồi dán lên môi, xòe que diêm, bập bập vài hơi, anh thong thả
nói trong làn khói thuốc mờ ảo. - Uất lắm chú! Ba của anh bị thằng sếp Tây nó
đập chết tươi trong vụ bãi công ở Xưởng máy Ba Son. Chú em trai bị đày đi Côn
Đảo vì tội rèn gươm phục thù, giết nó. Má thương chồng, thương con rồi ngã bệnh
mà chết.
Còn
vợ ư? Cái con vợ voi giày, nó chê anh nghèo, nhà anh vô phúc, nó cắp nón xuống
thuyền theo cái thằng thương lái râu xồm, mắt xếch, xuôi tít mít tận Năm Căn
rồi. - Anh Hai dừng lại, bập bập vài hơi thuốc rồi ngồi như pho tượng đá, lặng
nhìn về phía chân trời vô định.
Mấy
anh em vẻ thông cảm ngồi dậy cùng anh Hai. Gió trên sông Sài Gòn từng đợt
thoảng về. Thuyền ai xuôi vẳng lên câu "Dạ cổ hoài Lang", nghe buồn
thấu ruột. Mọi người ngồi lặng dưới bầu trời sao mông lung mà nghĩ về cái kiếp
mình. Được dịp, anh Phu tâm sự cùng anh em:
-
Chúng ta đều là dân cu-ly, lam lũ như trâu ngựa, mà vẫn đói vẫn rách. Cả đời đi
đến đâu cũng chẳng dám ngẩng mặt lên cùng thiên hạ. Anh em cứ nghĩ mà coi. Vì
đâu mà chúng ta sống chẳng cho ra cái giống người? Vì đâu mà gia đình anh Hai
bị chia lìa, tan nát? Đâu có phải cái số kiếp hay cái ông trời xanh kia
hại ta?
Nhân đây tôi kể các
anh nghe một câu chuyện: Tôi từng là phu đồn điền cao su Phú Riềng. Vâng, ở đấy
quả là một đại ngục trần gian. Năm nghìn
con người làm quần quật suốt từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối, chỉ trừ 15 phút giữa
trưa nghỉ để ăn cơm, uống nước, đi ỉa, đi đái. Vậy mà bọn đốc công cứ luôn tay
roi vọt vụt lên đầu, lên cổ chúng tôi. Chúng không chửi mà chỉ đánh. Đánh những
đòn hiểm. Bọn sếp Tây, cai ta đứa nào đánh phu phen càng dữ càng chóng lên
lương. Đi ăn cơm muộn: đánh; đi ỉa, đi đái về chậm: đánh; ra điểm danh chậm:
đánh, để cuốc búa cùn: đánh. Lắm lúc nó bực bội cái gì ở đâu, về gặp anh em:
đánh. Nhiều khi chúng đánh vô cớ chỉ vì chúng thích đánh. Một lần chính mắt tôi
chông thấy thằng xu-vây-giăng Tây vụt túi bụi lên cầu lên cổ anh Tính chỉ vì
anh nuốt vội miếng cơm nên bị nghẹn nơi cổ họng mà đứng lên chậm. Anh Tính cãi
lại, lập tức nó thoi anh một quả vào mạng sườn, anh bị giập lá nách, lăn lộn
mấy vòng hộc máu, chết tươi. Nó thản nhiên cho người vùi xác anh dưới gốc su
như không có chuyện gì xảy ra. Lại một lần nữa, có thằng sếp Tây định cưỡng hiếp
chị Tẹo ở trong rừng khi chị đang hì hụi làm cỏ cho cây cao su. Thấy nó hung
hăng, mắt như có lửa chị lùi lại lấy cán cuốc chống đỡ. Anh chồng nhìn thấy
liền chạy vội lại xin nó tha, nhưng nó không buông tha, nó đè sấp được chị Tẹo
xuống. Anh chồng liền đạp nó sang bên. Nó vùng dậy, vồ lấy cái gốc cây vụt liền
vào đầu anh. Anh bưng đầu chạy. Vài hôm sau anh chết vì chảy máu não. Chị Tẹo
thương xót chồng vì mình mà chết tức tưởi, biết không thể thoát khỏi cảnh đòn
roi, tủi nhục, chị đành treo cổ trên cành cao su mà kết thúc cuộc đời.
Ở đây, ngoài cái chết đòn roi còn có nhiều cảnh chết khác
nhau: chết vì cây đổ, chết vì muỗi mòng, muỗi cánh, chết vì sâu quảng, sốt rét
rừng, chết vì lao lực quá sức, ốm đau không thuốc thang cơm cháo. Hàng tháng có
cả trăm người chết theo mỗi kiểu khác nhau.
Mấy anh em ngồi lặng. Sự căm uất hiện lên từng khuôn mặt.
Anh Phu nói tiếp: "Vậy thử hỏi ruộng đất, đồn điền, rừng núi, hầm mỏ là
của ai? Tại sao những thằng chủ bên Tây nó sang đây cướp bóc và giết hại dân
ta? Tại sao anh em ta phải lao lực quên mình để khai thác của cải cho chúng nó hưởng?
Tại sao lại có cảnh bất công vô lý trên cả dải nước Nam này?
Anh Phu ngừng lại để anh em suy nghĩ.
Chừng
như bị kìm nén uất hận từ bao lâu, anh Hai Sài Gòn bật lên: "Cái thằng Hai
này đã từng sống lăn lóc khắp cái gầm trời xứ Nam Kỳ, đến nơi nào cũng thấy anh
em phu phen, người nghèo sống khổ không bằng cái con chó trong nhà bọn chủ
chúng nó. Đù mẹ nó! Chính chúng nó giết cha ta, bỏ tù em ta, mẹ ta chết theo. -
Anh Hai gầm lên - Ông nhất quyết phải cắt tiết một vài thằng chủ!".
Anh Phu điềm
tĩnh, khoát tay giải thích: "Tôi biết, anh Hai đang có nặng mối thù với
thằng Tây. Anh Hai có thể làm được việc ấy
lắm. Nhưng việc làm của anh mới chỉ là sự trả thù cá nhân. Nếu anh có giết được
một thằng Tây, thì lập tức mối họa chẳng những sẽ đến với anh ngay mà còn đến
với hàng nghìn, hàng vạn con người lao khổ chúng ta". Anh Phu kể tiếp:
-
Thế rồi Tết âm lịch năm Canh Ngọ tức là ngày 3 tháng 2 dương lịch năm 1930,
dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở đồn điền Phú Riềng, đồng
loạt năm nghìn phu đồn điền đã nổi dậy đấu tranh quyết liệt với chủ Tây, mở ra
cuộc khởi nghĩa lớn nhất của giai cấp công nhân trong nước Nam này. - Anh Phu
dừng lại vê một điếu thuốc rê đưa cho anh Hai, anh chỉ rõ - Anh em ạ, ở đâu có
áp bức, bất công, ắt ở đấy có tranh đấu nhưng phải là cuộc tranh đấu có tổ
chức, có lãnh đạo chứ không hành động đơn lẻ như anh Hai được. Làm như anh Hai
người ta gọi là manh động. Song muốn làm được việc chuyển trời ấy, trước hết
những người lao động nghèo khổ chúng ta phải thực sự đoàn kết thương yêu nhau.
Cho dù đói nghèo nhưng cứ phải sống cho ra con người cái đã.
Anh Phu im
lặng, mọi người im lặng.
Lúc
này anh em như ngộ ra, ai nấy thấm thía nguồn cơn khổ đau của cuộc đời mình.
Người nghèo không thương nhau thì còn ai biết thương mình!
Mỗi
ngày anh Phu kể một câu chuyện, khuyên bảo đôi lời. Những cuộc ẩu đả lẫn nhau
trong anh em bến cảng cũng dần ít đi. Những cuộc say xỉn cũng thưa dần và ánh
đèn khuya trên chiếu bạc không còn nữa. Anh Phu nhanh chóng trở thành chỗ dựa
tin cậy trong anh em. Ai có chuyện gì lấn cấn, họ tìm đến giãi bày cùng anh Ba Bắc
Kỳ - một con người từng trải, sâu sắc mà nhã nhặn. Anh Phu định rồi đây bắt
liên lạc được với cơ sở Đảng, anh sẽ tập hợp anh em vào trong một tổ chức, hoạt
động ngay trên bến cảng này.
Mấy
hôm sau, không thấy anh Phu đi làm ở Sở Tải. Viên đồn trưởng xây nhà, hắn gọi
anh Phu vào phụ việc. “Chắc là hắn định bóc lột mình đây - anh Phu nghĩ - Được
thôi, biết đâu sẽ là cơ hội!”. Suốt mười ngày, anh xoay trần ra làm cho hắn.
Nào là phu hồ, gánh nước, bổ củi... Viên đồn trưởng nhìn anh Phu sốc vác công
việc, hắn tỏ ra rất hài lòng.
Quả
là cái hôm vợ chồng con cái hắn dọn về nhà mới, hắn tỉnh bơ không động gì đến
công xá. Nhân thấy hắn vui, anh Phu xin hắn được đi thăm người thân mấy hôm.
Hắn không nói gì, nhìn anh Phu với vẻ lưỡng lự. Nhưng rồi hắn tặc lưỡi:
-
Cho hai ngày. Nhưng nên nhớ nếu sai hẹn là rũ tù. Hiểu chưa?
- Ngài yên tâm. Tôi phải giữ gìn cho quan đồn chứ.
- Anh Phu đáp, giũ áo đập vào cột mấy nhát rồi vắt vai ra về.
Sớm mai, tiết trời hơi se lạnh, anh
Phu vấn chéo chiếc khăn rằn lên đầu rồi khoác toòng teng bên hông chiếc túi
vải, ra đi. Anh định hướng phía Thủ Dầu Một rồi ngược lên huyện Bến Cát.
Trước lúc lên đường, anh vòng qua
bến cảng để quan sát toàn cảnh bến sông. Sông Sài Gòn cách biển năm chuc cây số,
nhưng vào mùa nước, lòng sông rộng mênh mông. Những con tàu lừng lững như trái
núi đậu lô xô trên bến cảng. Cũng chốn này đây hình ảnh năm năm trước như đang
hiện về:
Đó là một chiều cuối hạ oi nồng, anh
cùng các đồng chí của mình bị lùa xuống tàu đi đày Côn Đảo. Giữa không khí ngột
ngạt căng thẳng, bỗng một hồi còi tàu rú đến sởn gai ốc. Anh nhìn vội lên bờ,
thấy có mấy chị em dân phu vội vã đi về phía bờ sông nơi có rặng dừa mọc
nghiêng bên bờ nước. Trong đám người ấy, có một cô gái dáng người nhỏ nhắn, đầu
trùm chiếc khăn rằn, nhìn đăm đắm xuống con tàu như muốn tìm ai. Bỗng, anh Phu
sửng sốt: Vân! Đúng, Vân thật rồi! Sao em lại biết anh ra đi giờ này? Bảy Vân!
Em đấy mà anh không dám gọi.
Tiếng còi tàu lại hét lên một hồi dữ
dội rồi từ từ rẽ sóng, xa dần, xa dần... Cho đến khi anh thấy Vân chỉ còn như
một dấu chấm than lẫn trong sương chiều bến cảng.
Đêm ấy, biển đông phía chân trời,
trăng đã ngoi lên khỏi mặt nước, nhô dần, nhô dần... Cuối cùng cả một vầng
trăng tròn vành vạnh như chiếc nong vàng, toả ánh sáng dịu lên trùng khơi. Mặc
cho con tàu gầm gào rẽ sóng lao đi, giữa trời biển mông lung anh hồi tưởng về
Vân.
Bảy Vân, một cái tên rất Nam Bộ.
Nhưng đúng ra tên em là Tý, quê tỉnh Kiến An ngoài Bắc Kỳ. Em có dáng người nhỏ
nhắn thanh tú, đôi mắt vừa tròn vừa to, ánh đen nhánh rất linh hoạt, biểu lộ
lòng can đảm và quả quyết.
Thời kỳ đầu, ngày anh Cừ mới về, một
mặt vừa tuyên truyền cho công nhân Phú Riềng, một mặt vẫn liên lạc chặt chẽ với
anh Ngô Gia Tự ở Chợ Lớn. Người nhận nhiệm vụ giao thông liên lạc lúc đó là em.
Thế rồi ngày anh Cừ bị trục xuất ra
Bắc, anh Phu đảm nhiệm Bí thư chi bộ
thay anh Cừ, tiếp tục lãnh đạo anh chị em công nhân xiết chặt đội ngũ tranh
đấu. Ngày ấy luôn có Vân bên cạnh. Hình ảnh em thân gái dặm trường, vượt đèo,
lội suối về tận Sài Gòn để lấy tài liệu từ anh Ngô Gia Tự, chuyển lên Phú Riềng.
Có những chiều, em ngồi nghe anh dịch tờ báo Uy-ma-ni-tê viết bằng tiếng Pháp
của cơ quan Đảng Cộng sản Pháp do em mới chuyển về. Đó là những bài nói về tình
hình Pháp, những kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân Pháp. Anh giảng cho em nghe
những người cộng sản Pháp là anh em của chúng ta. Khi thực dân Pháp đang ra sức
cướp bóc nước ta thì tờ báo của các đồng chí kịp thời đến với Phú Riềng. Thật
là bổ ích! Em ngồi nghe chăm chú như hiểu ra được nhiều điều. Ánh mắt em biểu
lộ niềm tin nơi anh.
Thế rồi Phú Riềng một ngày bão nổi.
Năm nghìn công nhân nhất tề vùng lên, xiết chặt đội ngũ, rầm rập dưới ngọn cờ đỏ
búa liềm, đi tranh đấu với bọn chủ đồn điền Pháp. Trong đoàn người khổng lồ ấy,
có em dẫn tốp nữ đi đầu hàng quân, thẳng tiến trước những họng súng quân giặc.
Trong giây phút căng thẳng đầy nguy hiểm, súng đã nổ. Mặc, đoàn biểu tình vẫn
rùng rùng lướt lên như sóng biển. Anh chị em nhất loạt dùng đòn gánh, gậy tầm
vông, dao búa phang tới tấp lên đầu bọn lính. Có chị em xông tới ôm ngang bụng
chúng nó vật ngã xuống mà cướp lấy súng. Đoàn người giẫm đạp lên chúng nó và
hát vang bài “Quốc tế ca” hùng tráng.
Đêm ấy, anh đi họp chi bộ về thì gặp
em. Em vừa sinh họat trong đội hát chèo mừng ngày hội chiến thắng. Em vui lắm,
hồn nhiên lắm. Anh dắt tay em lên một ngọn đồi cao ở làng số 9, xa khuất nơi
cuối rừng. Đứng trên đồi cao lộng gió phóng tầm mắt về bốn phương trời chỉ thấy
bạt ngàn rừng cao su. Những cánh rừng cao su mọc lên từ máu và nước mắt của
hàng ngàn người phu lao khổ nơi địa ngục trần gian này.
Anh cho em biết rồi chỉ nay mai
thôi, quân thù sẽ trả đòn hèn mạt. Phía trước chúng ta là ngục tù, đòn roi và
gươm súng. Hai người cùng im lặng. Em nắm chặt bàn tay anh biểu lộ lòng kiên định,
vững vàng.
Đêm ấy, trời đầy sao. Hai anh em
cùng ngồi trên phiến đá. Anh chỉ cho em chùm sao Bắc đẩu. Hai người hướng về
phương Bắc nơi quê nhà ngàn trùng xa cách rồi kể cho nhau nghe những hình ảnh
về quê hương mình...
Em kể rằng: "Quê em ở một làng
biển Kiến An, làng Vĩnh La, đồng chua nước mặn. Đất đai đều thuộc nhà giàu. Đàn
ông đành bỏ làng ra Hải Phòng làm cu-ly, đàn bà ở lại chuyên đi làm thuê cấy
mướn cho những nhà ông chánh, ông lý...
Những ngày đông tháng giá, em ở nhà
ngóng mẹ. Sau bữa cơm thợ cấy, mẹ vội vã tạt qua nhà, lần ruột tượng trút ra
một nắm cơm gạo đỏ. Em mừng, đỡ lấy nắm cơm đưa lên mũi, hít hà mà chưa dám ăn.
Mẹ mang ra dúm muối rồi em từ từ chấm miếng cơm với chút muối, bỏ vào miệng
nhai thấy ngọt, thấy bùi. Nhưng rồi một trưa, mẹ thất thểu về với thân hình
tiều tuỵ, khăn tóc sổ tung, mẹ chẳng nói gì cả, mẹ lùi lũi nằm vật xuống
giường, mẹ khóc. Đến chiều mẹ bảo: “Ngày mai mẹ đi mò ngao, mò rạm nuôi con, mẹ
không đi cấy thuê nữa”. Thì ra mẹ bị tên lý trưởng Thống cưỡng hiếp. Mẹ kêu
toáng lên. Nó tức giận đuổi mẹ và quỵt luôn tiền công. Từ đây, mẹ kinh tởm bọn
nhà giàu.
Làng biển quanh năm quạnh hiu. Một
đêm nằm nghe biển réo ầm ào, mẹ bảo: “Đêm nay biển sông bụng”. Rồi nghe tiếng
mẹ thở dài. Ngoài vườn gió vẫn xạc xào bên khóm chuối. Bỗng bên hàng xóm kẽo
kẹt võng đưa, vọng sang tiếng ru buồn:
Cái làng Vĩnh Lả, Vĩnh La
Làm mắm, mắm thối, làm cà, cà thâm
Lời ru ấy gợi trong em thổn thức
nỗi buồn thương mẹ khôn cùng.
Sáng hôm sau, mẹ cho em theo ra bờ
biển. Mẹ thả em chơi với bày còng gió ven bờ cát rồi mẹ đeo giỏ, vác cào lùi
lũi ra khơi. Mẹ lội xa dần, xa dần... đến khi chỉ thấy cái đầu mẹ chỉ còn như
một cái chấm nhỏ trên mặt biển bao la. Hôm ấy bỗng trời nổi gió, mây đen ùn ùn
kéo về, mưa lắc thắc từng đợt, sóng cồn lên. Rồi trời tối sầm. Một con sóng nhô
cao lôi tuột mẹ ra xa. Em kinh hãi chạy dọc bờ biển gào mẹ. Nhưng thôi rồi, mẹ
vĩnh viễn ra đi!
Bố trở về lầm lũi mấy ngày dọn dẹp
cửa nhà rồi khép cửa cài then, kéo ngọn rào rấp cổng. Bố dắt em ra Cảng, gửi em
ở nhà ông cậu ruột làm nghề cu-ly xe tay. Cậu cũng nghèo lắm. Cứ sáng cậu lùi
lũi đội chiếc nón mê lên đầu, quàng dây càng xe lên cổ. Ra đi mà không có một
hạt gì dính bụng. Một hôm giữa trưa hè chói chang, cậu gặp thằng Tây Coóc bụng phệ,
mặc quần đeo giải, làm đốc công ở bến Cảng. Nó vẫy cậu lại, trèo lên xe rồi chỉ
tay về phía Thuỷ Nguyên. Nó luôn mồm quát cậu chạy cho nhanh kẻo nó bị nắng.
Cậu cắm đầu chạy một mạch sáu cây số liền, rồi đổ nó xuống giữa phố huyện. Cậu
xin tiền công, nó bảo cho nó chịu. Cậu lầu bầu chửi nó. Thằng này sõi tiếng
Việt, nó quay lại đá đít cậu lăn quay bên đường. Hôm ấy về tới nhà thì đã xế
chiều, khát nước cháy họng, cậu vào bếp bê cả cái ấm đất nước vối đã nguội,
ngửa cổ tu một mạch. Đoạn, cậu đặt cái ấm xuống đất rồi lăn đùng ra nền nhà.
Cậu trợn mắt. Cậu đã chết vì đứt ruột.
Cái thằng Tây Coóc ấy từng đánh chết
nhiều người. Khi đã say rượu nó sẵn sàng đập bất cứ ai trái ý nó. Một lần, nó
tức giận cái gì đã lao cả một thanh gỗ vào bố em. Bố tránh được, thanh gỗ theo
đà lao trúng đầu một người phu khác. Người ấy chết luôn tại chỗ. Uất lắm! Ngay
đêm ấy, bố em rủ một người bạn phu xe đột nhập được vào nhà nó. Chiều tối, nó
uống rượu say lướt khướt. Nó nằm ngửa cổ, há mồm mà ngáy. "Bộp!", một
nhát búa trúng giữa trán. Nó chết lăn không kịp ngáp. Bố em quẳng một tờ cáo
trạng tội ác lên ngực nó rồi ra về, dắt em đi trốn biệt. Rồi một ngày, hai cha
con theo những người phu mộ xuống tàu, trôi dạt lên đây…”.
Anh Phu im lặng, nhìn về phương trời
xa thẳm, rồi thong thả nói: "Chúng mình cùng cảnh ngộ. Cả thân phận năm
nghìn dân phu trên đồn điền cao su này cùng cảnh ngộ. Như anh Ngô Gia Tự đã
thường dạy chúng ta: "Phải biết đoàn kết mà tranh đấu. Phải lao vào cái
chết để tìm lấy cái sống. Nếu sợ chết, lùi lại thì chẳng những đời mình, đời
con cháu mình vĩnh viễn kiếp thân nô lệ".
Đêm tĩnh lặng, bầu trời đầy sao.
Giữa bao la đất trời chỉ còn anh và em trên đỉnh đồi lộng gió. Ngày mai cuộc
chiến sẽ diễn ra ác liệt! Điều gì sẽ xảy ra?
Và, đêm ấy em ngả vào vòng tay anh.
Trong giây phút mơ màng, em mơ một ngày mai...
* *
*
Sau
chặng đường cát bụi, anh Phu xuống xe đò tìm về một xóm nhỏ. Đó là mấy ngôi nhà
tranh thấp tè nằm nép ven bờ suối ở khu rừng cao su Dầu Tiếng. Đây là cơ sở của
Vân trên đường giao liên từ Sài Gòn lên Phú Riềng, đồng thời cũng là nơi mà đầu
năm 1929 anh Phu ra đây vận động đồng bào Kinh, Thượng đoàn kết đánh Tây.
Xóm
cũ đây rồi, vẫn còn đây vóc dáng những anh chị em dân phu phong trần, lam lũ.
Mọi người ùa ra vồ vập đón anh. Trên vai họ là những chiếc rìu thép sáng loáng,
là búa chim, là mai, cuốc... Những cánh tay săn chắc, những khuôn mặt sạm màu
nắng gió cao nguyên, những ánh mắt lấp lánh ngời sáng. Họ tới tấp báo tin vui.
Rằng anh chị em công nhân cao su Dầu Tiếng đã noi theo Phú Riềng đứng lên rồi.
Hôm
nay, tên đốc công không có mặt. Họ vui sướng trong những giờ phút tự do. Trong
không khí mừng vui ấy, anh Phu hỏi thăm tin Bảy Vân. Mọi người lao xao nhìn
nhau rồi gần như lắng lại. Linh tính cho hay một điều gì không tốt đẹp đã xảy
ra! Một bác phu già người Nam Bộ dáng quắc thước, đầu chít khăn mỏ rìu, quần
sắn lửng, chiếc khăn rằn vắt vai bước tới nắm cánh tay anh Phu, khẽ nói:
"Tôi, Năm Kha, đội trưởng Xích vệ. Tôi biết chú là con người quả cảm và
can trường vì nghĩa lớn, tôi nói để hay tin. Từ ngày chú đi Côn Đảo, bọn chúng
lùng sục những người cộng sản còn sót lại. Thím Bảy Vân và cháu trai Nam Việt
phải trốn về đây, tiếp tục cùng các đồng chí trong chi bộ Dầu Tiếng lãnh đạo
anh chị em trong đồn điền đứng lên tranh đấu. Trong một cuộc biểu tình lớn,
chúng bắt được thím, bắt luôn cả cháu Việt chưa đầy ba năm tuổi, cho lên chiếc
xe hòm bịt kín đưa đi bắn nơi cuối rừng kia.
Anh
Phu sững người như trời trồng. Anh không nói một lời, nghiến răng nhìn trừng về
phía cuối trời. Bác Năm ôm chặt anh vỗ về. Hai giọt nước mắt của anh lăn xuống
vai bác.
Xế
chiều, anh cùng bác Năm vác chiếc xẻng đi về phía cuối rừng. Đó là một dải rừng
nguyên thuỷ có nhiều cây chân chim mọc chênh vênh lên vách đá. Gió vẫn muôn
thuở bát ngát vi vút trên những ngọn cây. Ánh chiều vàng xuộm đổ xuống, loang
lổ. Đây rồi, mộ em nằm hiu quạnh dưới gốc cây pơ-lang. Anh đứng sững cúi đầu
tưởng niệm. Đoạn, cả hai người lẳng lặng, lúi húi dọn cỏ, xúc đất đắp cho phần
mộ em và con thêm cao, thêm dày. Anh thắp lên mộ em mấy nén hương trầm rồi đứng
lặng giữa làn khói xanh tơ vấn vít lên những tán lá. Anh thầm khấn vái cho linh
hồn hai mẹ con em được siêu thoát.
Chiều
đổ xuống rồi. Vĩnh biệt em - người đồng chí!
Anh
và bác Năm Kha ra về trong gió rừng xào xạc. Thoảng đâu đây tiếng chim từ quy
khắc khoải trong rừng chiều.
Sớm
hôm sau trở lại Sài Gòn, anh Phu tìm về căn nhà nằm bên đường phố La-gờ-răng-đi-ê.
Đó là một căn nhà nhỏ mà năm 1929 đã một lần anh Phu từ đồn điền Phú Riềng đến
đây gặp anh Quyết đang phụ trách Xứ ủy Nam Kỳ. Cái lần gặp gỡ đầu tiên ấy, anh
Quyết đã chỉ cho mình con đường tranh đấu giải phóng giai cấp. Anh Quyết đã hy
sinh trong chuyến vượt Côn Đảo về đất liền. Lần này, anh Phu vẫn tìm về chốn cũ
để thăm viếng với hy vọng tìm được manh mối cơ sở Đảng. Ông chủ nhà anh Quyết ở
trọ là một ông già Nam Bộ có cảm tình với cách mạng, ông sống chất phác, cởi
mở, quý trọng những đồng chí của anh Quyết thường lui tới.
Đây
rồi! Đường La-gờ-răng-đi-ê, một con đường rộng dài, thắng tắp nhưng vắng bóng
người và xe cộ qua lại. Những hàng me, sấu gốc to sù sì, lừng lững cao vút, xòe
những tán lá xanh non khẽ lăn tăn trong gió, gợi không gian yên tĩnh, vắng vẻ.
Dừng trước ngôi nhà, anh Phu gõ nhẹ cửa. Im lặng? Chừng như người trong nhà ý
tứ nghe ngóng. Rồi cánh cửa từ từ hé. Một người đàn ông chừng ngoại ba mươi,
dáng người cao ráo, có đôi mắt sáng, đầu đội mũ phớt, bận bộ đồ bà ba bằng lụa
tơ tằm màu mỡ gà, chân đi giày Gia Định, miệng ngậm tẩu thuốc, khói xanh nhẹ
tỏa, trông dáng công tử Bạc Liêu. Người ấy nhìn anh Phu từ đầu xuống chân với
vẻ xét nét.
-
Anh tìm ai? - Anh ta lạnh lùng hỏi.
-
Dạ, tôi muốn gặp ông cụ chủ nhà, thưa ông.
-
Anh có quan hệ gì với ông cụ?
-
Trước đây tôi thường đem thuốc rê cho ông cụ.
Người
ấy nhìn lại anh Phu một lần nữa, vẻ thận trọng rồi bảo:
-
Anh
hãy đợi đã!
Anh ta quay
vào trong nhà. Anh Phu vội nghĩ: không khéo mình lại sa vào tay mật thám? Đang
tìm cách đối phó thì ông cụ chủ nhà lập cập chống gậy bước ra cửa, tay cầm
chiếc quạt giấy phe phẩy, cụ mỉm cười:
- Ô, người cũ
đây rồi!
Người
đàn ông kia cũng nở nụ cười ý nhị. Khi đã hiểu được mật hiệu của đôi bên, người
đàn ông tự giới thiệu:
-
Tôi là Võ Nam Dân, cán bộ của Xứ, thường mượn danh chủ hãng buôn vải sang Cao
Miên. Bây giờ trao đổi ở đây không tiện. Vả lại tôi có việc của đoàn thể, cần
phải đi. Tôi giới thiệu anh đến gặp anh Nam Liên ở vườn hoa Sở Thú, anh sẽ nắm
rõ tình hình hoạt động của Xứ ủy.
Anh
Phu vô cùng vui sướng, cúi đầu đáp lễ ông cụ chủ nhà và nắm chặt tay người đồng
chí rồi lặng lẽ chia tay.
Theo
lời dặn của Võ Nam Dân thì Nam Liên hôm nay mặc bộ quần áo Tây màu trắng, đội
mũ phớt trắng, đeo kính đen, người cao dỏng, đầu to, trán rộng và dô, hàm răng
hơi vổ, hiện đang làm thợ ảnh bên vườn chim.
Sở
Thú trưa hè, tiếng ve sầu rền rĩ. Khách qua lại chừng như đã mỏi mệt, lơ đãng.
Từ đằng xa, anh Phu để ý một người đàn ông vận đồ trắng, đứng dưới gốc cây sấu
già. Anh Phu thấy hồi hộp, liệu mình có nhìn nhầm? Thận trọng, anh đi qua rồi
liếc ngang.
-
Nam Liên à!... Vậy là anh Trân, anh Tống Văn Trân!
Anh em gặp
nhau vui mừng, hàn huyên câu chuyện. Anh Trân thuật lại chuyến vượt biển đêm
ấy: "Chuyện vượt sóng gió, biển khơi dĩ nhiên là phiêu lưu và khủng khiếp
rồi. Thôi mình chỉ kể sơ lược thế này... Mãi nửa đêm hôm ấy, nước triều dâng
lên to mới đem được thuyền ra biển. Thuyền qua được Hòn Bà thì gặp dòng nước
xoáy phải né sang Hòn Cạnh, núp lại một ngày, chặt thêm cây khô bó cặp bên mạn
thuyền cho thuyền nổi hơn. Vùng này tàu thuyền thường qua lại nên phải đợi đến
khi mặt trời lặn, nước triều lên to mới căng buồm lên. Được dịp gió nồm lộng
thổi, thuyền lướt phăng phăng trên mặt biển. Chạy một ngày một đêm thuyền tới
Ba Tri. Như vậy là cả chín đồng chí xuống thuyền đêm hôm ấy đã an toàn đặt chân
lên đất liền. Trong đoàn có cậu Tạo, người Ba Tri, trực tiếp dẫn mình đi gặp cơ
sở Đảng, nhưng lên đến tận Bến Tre mới chắp mối được. Mình quay trở lại đón anh
em, rồi hoạt động luôn ở Bến Tre. Năm sau, Xứ ủy Nam Kỳ điều lên hoạt động tại
Sài Gòn, phụ trách công tác tổ chức của Xứ cùng các anh Tạ Uyên người Ninh Bình
và Nguyễn Hữu Tiến người Hà Nam quê cậu.
Bây giờ là thuận rồi. Thế hiện giờ cậu ở đâu?
-
Tôi đang chịu quản thúc ở bến cảng. Nhưng hàng ngày vẫn được sống, làm việc
cùng anh em phu khuân vác.
-
Tốt lắm! Chính những nơi ấy, anh em mình cần có mặt. Cậu có nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo quần chúng đứng lên đấu tranh. Cậu bắt tay làm tới luôn, Xứ ủy sẽ trực
tiếp về tham gia chỉ đạo.
Anh
Trân hơi mỉm cười, tin cho anh Phu biết rằng anh đã lấy vợ. Vợ anh là một cô
gái nghèo trong một gia đình cơ sở tin cậy, quê dưới Bến Tre. Cô ấy lên đây làm
ăn buôn bán nhỏ ở chợ Bến Thành. Tháng nào kiếm được chút tiền dư dả, anh chị
trích ra một khoản góp vào quỹ Đảng. Còn lại chi dùng cho mình, đỡ đần các đồng
chí qua lại. Chị đang mang thai sắp đến ngày sinh cháu. Anh Phu nghe lấy làm
vui và mừng cho anh chị.
Hôm
ấy, anh Trân đưa luôn anh Phu về nhà. Đó là một căn nhà nhỏ hẹp chừng độ hơn
chục mét vuông, nằm sâu trong ngõ hẹp bên hông chợ Bến Thành. Trong nhà đồ đoàn
đơn sơ nhưng ngăn nắp bởi có bàn tay xếp đặt của phụ nữ, căn nhà trở nên rộng
thênh đối với gia đình chỉ một cặp vợ chồng son như anh Trân.
Chị
Sáu, vợ anh Trân, một cô gái Nam Bộ, người tầm thước, khuôn mặt trái xoan, tóc
búi gọn sau gáy, nước da nâu dòn, đặc biệt có đôi mắt đen mà sáng, luôn có cái
nhìn cởi mở. Anh chị thương yêu nhau lắm. Hôm ấy, chị làm cơm đãi người đồng
chí của chồng. Bữa cơm có món canh chua cá lóc Nam Bộ. Đã từ bao năm nay mới
được ăn bữa cơm đầm ấm gia đình, anh Phu thấy rưng rưng cảm động.
Lúc
tiễn chân anh Phu, anh Trân nói:
-
Xứ ủy cử mình ra Trung Kỳ để giải quyết công việc.
Anh
Phu vội có lời:
-
Anh là tù vượt Côn Đảo. Mật thám đang truy nã. Anh thử suy nghĩ xem. Hãy để
đồng chí khác thay?
Anh
Trân suy nghĩ rồi đáp: "Trên đã chỉ định, chắc đã có cân nhắc nhiều. Thôi,
đi thôi. Ta còn gặp nhau".
* *
*
Một
chiều sau khi tan tầm, mấy anh phu bốc vác, mình trần quần xà lỏn ngồi rải rác
đón gió nam bên bờ sông Sài Gòn rồi tào lao câu chuyện. Nhưng thực ra anh em
ngồi canh chừng bọn mật thám. Dưới sông chỗ bến vắng có một con thuyền buồm,
trong khoang kín có độ mươi người ngồi vây quanh chiếu bạc. Ấy là những anh em
chủ chốt trong các nghiệp đoàn, và các hội Ái hữu, chụm nhau về đây vờ làm
những con bạc khát nước. Anh Phu đang bắt đầu trình bày kế hoạch hoạt động
trong các hội ở bến cảng thì một thanh niên mình trần chạy đến, báo có mật
thám. Anh Phu thận trọng nhìn lên bờ thì thấy một tên vận đồ Tây, đầu đội mũ
phớt, tay chống ba-toong theo sau là hai tên lính áo vàng. Anh Phu ra hiệu, lập
tức anh em cởi trần nhảy xuống sông vờ bơi lội. Thằng đội mũ phớt chỉ ba-toong
xuống đám anh em, hỏi:
-
Có Phạm Văn Phu tắm dưới đây không?
-
Tôi đây. - anh Phu trả lời.
-
Lên ngay! - Hắn lạnh lùng quát.
Chiều
hôm ấy, anh Phu bị trục xuất khỏi đất Nam Kỳ.
* *
*
Quê nhà những tháng năm đen tối
Tháng 5 năm 1936
Vào
một buổi sáng, hai tên lính khố xanh, cầm tờ lệnh của Công sứ Hà Nam, áp giải
Phạm Văn Phu về giao cho Tri huyện Bình Lục. Hồ sơ của anh Phu đã được gửi về
từ mấy hôm trước.
Tại
huyện đường, viên Tri huyện đầu đội khăn nhiễu tam giang, vận quần lụa trắng,
mặc áo gấm lam, ngực đeo thẻ bài ngà, ngồi dựa gối xếp trên sập gụ chân qùy dạ
cá. Bên tả là bàn của viên Thừa phái, bên hữu là bàn của viên Lục sự.
Viên
Tri huyện khoan thai nâng tách trà mạn, khẽ nhấp một ngụm. Đoạn, thong thả với
tay vít cong cần xe điếu trúc, lọc xọc một hơi thuốc lào rồi ngửa mặt, lơ đãng
nhả một cụm khói xanh, tản mát lên trần nhà. Vứt chiếc bóp da thuốc lào xuống
sập, hắn ngồi hẳn dậy, sẵng giọng truyền cho hai tên lính lệ đem Phạm Văn Phu
vào. Hắn chỉ cho anh đứng vào một chỗ trước mặt, rồi lên giọng cắt nghĩa:
-
Anh Phu, tôi biết anh từng nổi loạn ở cái đất Phú Riềng xứ Nam Kỳ, để đến nỗi
phải ngồi tù tưởng đến mọt gông. Nay nhờ bên Mẫu quốc mở lượng hải hà, tha bổng
cho anh được về quê làm ăn lương thiện. Anh hiểu chửa? - Hắn gằn giọng nói tiếp
- Nhưng anh hãy nghe đây: Kể từ nay, anh phải chịu sự quản thúc của quan lớn sở
tại. Đi phải bẩm. Về phải trình. Tôi mong anh sẽ là con người lương thiện. Anh
hiểu điều đó chứ?
-
Vâng, thưa ngài. Tôi vốn dĩ là người dân lương thiện. - Anh Phu trả lời - Cho
dù ở đâu, tôi cũng vẫn là con người làm việc thiện. Xin ngài yên tâm!
-
Thôi được. Kể từ ngày mai, anh bắt đầu phụ việc cho anh Ký Đài ở ngoài Nhà
thương phố Phủ. Anh nhớ lấy, chớ có ngang. Ở đây không có đất cho anh dụng võ
đâu. Khuyên anh nên làm tốt phận sự. Tôi sẽ sớm trả tự do cho anh.
Nhà
thương phố Phủ nằm ngay cạnh huyện đường. Đó là mấy ngôi nhà nhỏ thấp tè, mái
lợp rạ, vách đất trát phẳng, quét vôi trắng. Phía sau là Trường Kiêm Bị có bốn
phòng học, khoảng hơn một trăm học trò. Trước mặt là quốc lộ 21 có đường xe lửa
Bắc - Nam
chạy qua. Nhích lên một đoạn là ga xép vắng vẻ.
Gọi
là phố huyện, nhưng lèo tèo mấy chục mái nhà tranh tre nứa lá bên cạnh là những
thùng đào, thùng đấu, cỏ lác rậm rì. Loáng thoáng đường phố bóng những người
nông dân nón mê, áo tướp vật vờ qua lại. Hoặc lành lặn hơn chút ít, ấy là những
đám người dân vô phúc ngồi chờ quan gọi vào hầu kiện. Cũng đôi khi có tiếng
trống khẩu "tom, tom" của lính lệ dẹp đường cho võng quan đi kinh lý.
Bao
quanh phố huyện là những xóm làng xa nằm u tịch đìu hiu với những người nông
phu rách rưới, gầy guộc, đen đúa, quanh năm ngụp lặn, nổi chìm giữa đồng chiêm
mênh mông nước trắng, rong rêu, hoa súng.
Vậy
là từ nay, anh Phu chịu quản thúc ở Nhà thương phố huyện, với công việc làm cu-ly-san
cho Ký Đài. Những năm ở đồn điền cao su Phú Riềng Nam Bộ, anh từng làm anh-phẹc-mie[2] ở
trạm xá đồn điền, được bọn chủ Tây, đầm tin dùng. Nhân lúc chúng sơ hở, anh đã
chuyển được thuốc men, dụng cụ y tế vào kho dự trữ trong rừng su để chuẩn bị
cho cuộc đình công lớn. Bây giờ, được sống giữa quê nhà, dĩ nhiên anh phải ra
tay nghề để tìm cơ hội. Còn Ký Đài thực ra
mật thám giao cho hắn việc theo dõi
anh Phu. Cũng vì tay nghề thạo, anh lại được hắn giao cho việc tiêm và phát
thuốc, thậm chí cả việc khám bệnh. Thế
là hắn rảnh việc để chúi đầu bên bàn đèn.
Một hôm, có một cậu dáng thư sinh, khuôn mặt ngôi ngô, rắn rỏi. Cậu ta bận bộ quần áo dài trắng, vải trúc
bâu, đầu
đội mũ nan, xách chiếc cặp da đen đến nhà thương xin thuốc. Cậu ngồi xuống chiếc
ghế băng dựa sát vách ngoài thềm... Khi vãn khách, cậu ý tứ nhìn trước sau rồi đứng dậy xin gặp anh
Phu.
Xem dáng vẻ thông minh nhã nhặn của cậu, anh
Phu hỏi nhỏ:
-
Cậu là học trò trường Kiêm Bị?
-
Dạ, vâng!
-
Cậu đến xin thuốc gì?
- Dạ, thuốc đau đầu.
-
Thế thôi, hả cậu?
-
Vâng, nhờ thầy.
Anh
Phu, nghe khám, phát thuốc và dặn dò tỷ mỉ cách sử dụng. Cậu học trò mở cặp để
bỏ gói thuốc. Một tờ giấy trắng tinh từ trong cặp rơi xuống đất. Cậu ý tứ liếc
anh Phu, nói nhỏ: "Thầy cầm tờ giấy này đem về phết nhẹ cồn I-ốt lên, sẽ
có chữ đấy". Cậu ta tỏ như vô tình gấp cặp, đứng dậy ra về. Anh Phu thản
nhiên cúi nhặt tờ giấy trắng, rồi để hẳn lên mặt bàn.
Tối
hôm ấy, sau một ngày làm việc vất vả, về với chiếc lều của mình ở đầu làng Sái,
anh sập cửa, cài then làm theo lời dặn của cậu học trò nọ. Sau khi dùng chiếc
lông gà có tẩm cồn đem phết nhẹ lên tờ giấy trắng thì bỗng những hàng chữ thau
tháu, nghiêng nghiêng hiện lên trang giấy. Anh bình tĩnh ngồi đọc:
Chúng
tôi, nhóm học trò Trường Kiêm Bị, đã tham gia phong trào đấu tranh nổi dậy của
nông dân Bồ Đề, Hưng Công từ ngày 20 tháng 10 năm 1930, đã lôi cuốn hàng nghìn
người tham gia, diễn ra suốt 7 giờ liền trong phạm vi rộng lớn: từ Bồ Đề, Hưng
Công, tới An Ninh, Thành Thị, Vọc.
Đoàn
biểu tình giương cao cờ đỏ búa liềm và đã vạch tội ác của đế quốc, phong kiến.
Hô hào nông dân đấu tranh giảm sưu thuế. Cuộc đấu tranh kết thúc thắng lợi. Bọn
Pháp hoảng sợ điều quân từ Hà Nam xuống, Nam Định lên, ra tay đàn áp phong trào,
bắt đi một số đảng viên cộng sản và nhiều quần chúng cách mạng bị đánh đập, tù
đày. Hiện nay, phong trào đang dần được khôi phục.
Rất mong
đồng chí sớm tìm cách về tham gia phong trào cách mạng huyện nhà! Ký tên - Bạn ở làng Tiêu
Anh
Phu hồi hộp đọc lại một lần nữa rồi châm lửa đốt luôn tờ giấy. Đêm ấy, anh thấy
lòng rạo rực "Bạn ở làng Tiêu". Cậu nào nhỉ? Ở Tiêu Thượng, Tiêu Hạ
hay Tiêu Viên? Bạn bè không ít. Thời mình trần giậm giỏ có. Bạn đi lễ nhà thờ
thì nhiều. Thời đi học trường làng cũng vậy... Thôi được, rồi đây ta sẽ gặp.
Đoạn, anh mở toang cánh liếp che cửa sổ rồi ngả lưng lên chiếc giường tre mà
đón gió nồm nam lùa qua song cửa. Anh ngắm nhìn trời sao mênh mông xa thẳm,
miên man suy nghĩ. Như vậy là những nông dân khổ vùng chiêm trũng quê ta, ngay
từ năm 1930, đã đứng lên rồi. Họ đã có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Họ đã biểu thị
được lòng căm phẫn với chế độ thực dân, phong kiến và họ đã phá tan sự im lặng
bao đời ở làng quê. Ta phải nhanh chóng tìm về với họ.
Năm
ấy, lại có nạn dịch tả đang lan tràn. Ký Đài rất sợ lưỡi hái của tử thần quàng
vào cổ. Hắn liền giao cho anh Phu xuống làng đi trừ dịch.
Được
dịp, anh Phu như con chim sổ lồng. Anh lấy tên là Ký Tiêm. Cứ sáng sáng, thầy
Ký lại vận chiếc áo dài bằng vải thâm, chiếc quần trúc bâu màu cháo lòng, chụp
lên đầu chiếc mũ cát trắng rộng vành, vắt toòng teng sau lưng chiếc tay nải
đựng thuốc. Thầy Ký Tiêm thoắt ẩn, thoắt hiện tận các thôn cùng, xóm vắng.
Ở
một làng nọ, người bị bệnh dịch chết ngả như rạ. Có một gia đình vừa đưa đám ma
mẹ ra đồng, về đến đầu ngõ, thấy đứa con trai nằm chết lạnh bên đống rạ. Rồi
nhà này lan sang nhà khác, làng này lan sang làng khác. Khắp nơi, ảm đạm màu tử
khí.
Thầy
Ký về làng, vừa kịp buông tay nải, trút chiếc áo dài thâm đã xắn cao tay áo,
cúi xuống vực những con bệnh chỉ còn da bọc xương với đôi tròng mắt trắng dã,
đang thoi thóp thở. Thầy mang thuốc tiêm cho họ... Những con bệnh đang nằm chờ
thần chết lôi đi dần hồi tỉnh. Rồi những thìa cháo loãng, những rãi khoai lang
đã cứu họ.
Suốt
một tháng trời, thầy Ký như con thoi, thoắt làng trên, thoắt xóm dưới. Nơi đâu
thầy Ký về là những người dân nơi ấy mừng mừng tủi tủi mà cúi rạp xuống:
-
Lạy thầy!
-
Lạy thầy cứu chúng con!
-
Lạy thầy...
Những
lời khẩn cầu từ gan ruột của những người nông dân lam lũ nghèo hèn, khiến lòng
anh se thắt lại. Anh thấy mình phải có trách nhiệm lớn lao trước bao thân phận
này.
Chỉ
một thời gian ngắn, bệnh dịch tả đã được ngăn chặn. Công của thầy Ký to lắm.
Tiếng đồn lên quan Công sứ Hà Nam.
Rồi một hôm, viên Tri huyện Bình Lục cho lính lệ gọi anh Phu về huyện đường. Lần
này, hắn ra giọng thân thiện:
-
Này anh Phu! Tôi xem anh cũng là một con người từng trải mà tay nghề cũng khá
đấy chứ. "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", anh ạ. Mà năm nay hình như
anh quá cái tuổi "Tam thập nhi lập" rồi còn gì. Lấy vợ đi thôi. Kẻo
rồi lại cha già con cọc. - Đoạn hắn cúi xuống nâng tách trà nhấp một ngụm. Đặt
chiếc tách xuống khay, hắn thong thả - Hôm nay, quan lớn thưởng cho anh một món
tiền, gọi là chút công lao để rồi về quê kiếm lấy một cô ả nào cho hợp tình hợp
cảnh mà tu chí làm ăn. Đời thế là sướng chứ còn mong gì hơn?
Dĩ
nhiên anh Phu thừa hiểu cái giọng điệu mua chuộc của hắn, anh trả lời:
-
Vâng, xin cảm ơn ngài! Song cái mà tôi đang cần cái lời hứa của ngài hôm nào
với tôi.
-
Ồ, Hắn khẽ nhún vai - Như vậy là anh đã được tự do rồi còn gì. Song tôi vẫn
khuyên anh: Cái gì cũng chỉ có một thời. Cái thời trẻ trai, bồng bột, thiếu
chín chắn của các anh, chỉ chuốc vạ vào thân. Phỏng có ích gì? Một bàn tay
không che nổi mặt trời đâu, rồi có ngày hối chẳng kịp.
-
Thưa ngài, ban nãy ngài khen tôi là một người từng trải. Vâng, lại một lần nữa
tôi cảm ơn ngài và dĩ nhiên bao giờ tôi cũng phải sống theo phong cách của một
người từng trải. Mong ngài khỏi bận tâm!
Viên
quan huyện thấy chột dạ. Sắc mặt hắn không được vui. Nhưng đã trót hứa, hắn
đành gọi viên lính lệ mang gói tiền trao cho anh Phu.
* *
*
Làng Đồng Chuối
Đã
mười năm, anh Phu từ biệt làng ra đi, dấn thân vào con đường gió bụi tận trời
nam xa thẳm. Giờ trở lại quê nhà mà làng sao vắng vẻ tiêu điều quá. Đã có nhiều
gia đình cửa đóng, then cài. Họ dắt díu nhau đi tha phương cầu thực. Nước đồng
vẫn mênh mông trắng lặng, vỗ sóng bì bọp quanh chân tre. Đôi lúc vài ba con
thuyền câu lặng lẽ bơi như chiếc lá. Đó đây mấy bóng người đàn ông gầy guộc
mình trần, khố rách, vai quảy đôi quang giành đi gắp phân xứ người đang tấp
tểnh về làng. Và kia, những người đàn bà váy đụp bên giỏ bên xảo cua ốc, vừa
ngụp lặn khắp các xứ đồng sâu về. Họ đều là những người phi nội tắc ngoại trong
họ tộc, làng xóm quê anh. Dáng họ như chiếc bóng ma, tất tưởi quá chừng. Và,
nhà anh kia rồi. Cũng chỉ là cái túp một gian hai chái nằm xiêu xiêu trên mảnh
đất chỉ vừa bốn thước. Lại cũng cửa đóng, sân rêu. Hỏi ra, thì được biết cha
mẹ, anh em đều ly tán, trôi giạt ra tận xứ Đông. Bởi chẳng những đói nghèo đã
là cực nhục rồi nhưng còn khổ hơn là sự kìm kẹp của bọn hương lý đối với một
gia đình có người con trai “đi làm giặc”(!) thì không còn chịu nổi.
Anh
cậy liếp bước vào. Một mùi rêu ẩm mốc sực lên, lạnh lẽo. Những chiếc giường
tre, chiếc chõng tre xộc xệch, những chiếc vò, chiếc vại còn đây... Năm xưa,
dưới mái tranh này là tổ ấm gia đình sum họp, cháo rau sau một ngày lam lũ khắp
xứ người.
Nghe
tin anh về, ông Trùm xứ là bác họ, lập cập chống gậy sang nhà. Ông cụ hắng
giọng rồi hỏi:
-
Ai như anh Phu đã về đấy ư?
-
Dạ. Cháu chào bác ạ!
-
Vậy mà ở nhà chúng tôi cứ nghe tin đồn rằng anh đã bị cái thằng Tây nó đánh
chết trong ngục rồi.
-
Dạ. Thưa bác, cháu cũng mới từ ngục Côn Đảo về đây.
-
Giê-su-ma, lạy chúa! - Giọng cụ Trùm khàn khàn - Từ cái đận anh đi đến nay, dân
làng lâm vào cảnh khốn khó lắm. Nhiều gia đình phải bỏ làng mà đi. Cha mẹ anh
có dặn bác: Chuyến này chúng em ra đi đến bao giờ kiếm nổi bát ăn, chúng em mới
về. Chứ ở nhà rồi cũng chết đói cả lũ mất thôi. Có túp nhà, chúng em nhờ bác
trông coi giúp.
Ông cụ Trùm nhìn lên mái nhà xiêu vẹo, dáng vẻ
ái ngại, cụ hỏi anh Phu:
-
Dạo này anh về xem liệu ở nhà được lâu không ?
-
Dạ, cháu về sửa lại túp nhà xong cháu cũng phải ra đi, bác ạ!
-
Ừ, ra đi hay ở là việc của anh nhưng cái nhà sắp đổ rồi đấy. Anh xem tu sửa cho
nó kín gianh, lành cột. Bác nhắc vậy, kẻo nhỡ nó đổ rồi mai đây lấy đâu chỗ mà
đi về.
Hôm
sửa nhà, cụ Trùm cho anh con trai sang giúp, suốt mấy ngày liền hai anh em dựng
nhà, nhào bùn trát vách, lợp lại mái gianh, buộc lại cánh liếp...
Công
việc đã xong xuôi. Đêm ấy trăng rằm, anh Phu vác chiếc chõng tre ra đặt dưới
mái hiên. Ngả lưng xuống chiếc chõng, đầu gối lên khúc gỗ đã đẽo vạt làm gối,
tay phe phẩy chiếc quạt mo cau, anh nằm ngắm trời sao mà hồi tưởng...
...
Cái ngày xưa, cái hồi còn nhỏ, cũng trên mảnh sân con này vào những đêm trăng
tơ, gió nồm nam thổi về mát rượi là Cha lại đem mấy manh chiếu rách trải xuống
sân cho ba anh em nằm ngắm trăng sao rồi nghêu ngao cái “Con cò bay lả...”, để
rồi Mẹ lại mang chiếc quạt mo cau ra ngồi dựa bên thềm rồi chỉ tay lên giải
Ngân hà mà kể chuyện "Ngưu lang - Chức Nữ", chuyện "Bắc đẩu Nam
tào", chuyện “Thạch Sanh”, “Tấm Cám”... Giọng Mẹ kể dìu dịu thầm thì như
lời từ ngàn xưa vọng lại....
Ơi,
những đêm trăng xưa...!
Giờ
đây cha, mẹ, anh em đang phiêu dạt nơi đâu?! Đoạn, anh ngồi dậy vào trong nhà
lục tìm mảnh giấy trắng, anh viết mấy dòng:
Cha,
Mẹ ơi, con đã về đây. Nhưng con lại phải ra đi. Con vô cùng xót đau trước cảnh
gia đình ta phải ly tán, tha phương vì đói rách.
Con xin
thưa Cha, Mẹ: Chẳng riêng gì nhà ta, làng ta mà là cả dân tộc Việt Nam mình đang
rên xiết, lầm than, của kiếp người dân nô lệ bị mất nước. Cửa nhà con dựng lại
rồi.
Mong Cha,
Mẹ hãy tin rằng mai đây cuộc đời sẽ đổi khác. Con xin gửi lại mấy chữ để Cha,
Mẹ yên lòng.
Chào
Cha, Mẹ con đi.
Anh
đọc lại một lượt rồi đứng lên đi tìm một đoạn ống nứa tép bé tẹo. Anh cuộn lá
thư, đút vào trong ống nứa rồi nắp lại cho chặt. Anh mang sang gửi ông bác họ.
Hôm
sau vào phiên chợ Dằm, anh dậy sớm đi chợ, sắm một cái lễ để vào gặp Lý trưởng
làng Đồng Chuối. Anh xin hắn đi gặt thuê ở ngoài xứ Đông. Hắn híp mắt nhận lễ
và đồng ý cho anh đi hai tuần.
Vậy
là mờ sáng hôm sau, anh bận bộ quần áo nâu sồng, đầu chít chiếc khăn mỏ rìu,
vai vác chiếc đòn càn, một đầu đòn kia, buộc gói mo quần áo và một chiếc liềm.
Anh sang chào ông bác họ rồi lên đường.
Thực
ra anh không đi gặt thuê. Anh lên Xuân Cầu gặp Tô Hiệu. Tới Xuân Cầu thì trời
xế chiều. Cảnh làng cũng tiêu điều xơ xác. Bởi dân ở đây cũng đều tứ tán tha
phương. Anh Tô Hiệu vắng nhà. Ông cụ thân sinh ra anh Hiệu vốn là ông đồ nho "sinh
bất phùng thời". Ông cụ chịu ảnh hưởng sâu sắc phong trào Văn thân. Ông cụ
có mấy người con trai, trong đó có Tô Chấn và Tô Hiệu. Tô Chấn tham gia Quốc
dân Đảng của cụ Nguyễn Thái Học. Tô Hiệu
tham gia hoạt động cách mạng. Hai anh em cùng ngồi tù ở Côn Đảo, có thời cả hai anh em cùng chung một khám tù. Cụ niềm nở giữ anh ở lại, nghỉ qua
đêm.
Đêm ấy, qua câu chuyện cụ
kể: Sau khi ra khỏi nhà tù Côn Đảo, Hiệu về quê luôn. Thấy im lặng, Tây chưa có
lệnh gì, Hiệu liền đến gặp lý trưởng làng xin đi làm ăn. Lý trưởng gật liền rồi
cấp luôn giấy cho Hiệu đi. Bởi hắn cũng muốn tống nhanh những phần tử cộng sản
đã mãn hạn tù về làng. (Ở lại chẳng thêm phức tạp ra). Vậy là Tô Hiệu có cớ ra
đi hợp pháp.
Sáng hôm sau, anh Phu được ông cụ xoay
cho chiếc áo dài thâm, quần chúc bâu trắng, chiếc khăn xếp chụp đầu, chiếc ô
lục soạn lại thêm chiếc túi vải khoác nách. Ra dáng thầy lý đi chơi tỉnh.
Theo lời ông cụ dặn, anh
Phu đến Nhà quản lý Văn khế Đờ-rốt-sờ, anh Tô Hiệu đang làm thuê ở đấy. Hai anh
em mừng vui gặp nhau rồi cùng về gác xép nhà trọ ở cái phố Hàng Đồng vắng vẻ.
Thấy khuôn mặt anh Tô Hiệu hơi xanh xao, hơi gầy. Anh Phu hỏi tình hình sức
khỏe thì được biết Hiệu đã chớm bệnh phổi. Nhưng Hiệu vẫn hăng say miệt mài làm
việc. Anh em hàn huyên, dăm ba câu chuyện... Rồi Tô Hiệu trao đổi với anh Phu:
"Hiện giờ Đảng đã quyết định đưa đông đảo quần chúng vào những tổ chức hợp
pháp và nửa hợp pháp. Phong trào đang phát triển mở rộng. Ở đây, anh Lương
Khánh Thiện đang len lỏi trong các xí nghiệp, gây các cơ sở bí mật của Đảng.
Còn anh Đặng Xuân Khu và
anh Hạ Bá Cang[3] thuộc
nhóm “nửa công khai”, phụ trách báo Đảng. Bây giờ cậu nên tranh thủ gặp các anh
ấy lấy tin tức từ các báo chí và nghiên cứu một số sách kinh điển Mác-xít,
trang bị thêm lý luận và thực tiễn để rồi nhanh chóng bước vào guồng bão táp
cách mạng".
Bấy
lâu nay, một mình chịu quản thúc ở quê nhà, không ai dám đến mà có đi đâu cũng
khó. Giờ được trở về với Đảng với những đồng chí đã từng cùng nhau sống chết
với bọn đế quốc trong lao tù, anh Phu mừng rơi nước mắt! Hôm sau, anh tìm đến
nhà anh Lương Khánh Thiện, người cùng quê Hà Nam lại cùng chi bộ nhà tù ngoài
Côn Đảo hồi nào.
Thiện
là con một ông đồ nghèo ở phố Châu Cầu, Phủ Lý. Thiện ra Hải Phòng học nghề,
làm thợ rồi tham gia hoạt động cách mạng trong phong trào thợ thuyền. Hồi ở
ngục Côn Đảo, Thiện là một người rất ưa hoạt động. Bó gối trước cái khó là
không chịu được. Làm cái gì cũng xung phong. Thiện thân hình cao gầy, mắt sáng
nhưng môi thì thâm sì vì thuốc lào. Anh em trong tù tặng Thiện cái tên "Thần
khổ ải", vì lúc nào cũng sống kham khổ, ăn mặc xuềnh xoàng, giành dụm cho
sự nghiệp chung.
Thời
kỳ này, Lương Khánh Thiện cùng chị Đường, chị Hải mở cửa hàng giặt là ở phố
Hàng Giày để tiện bề hoạt động.
Thấy
Phạm Văn Phu xuất hiện trước cửa hiệu, Lương Khánh Thiện liền chạy bổ ra ôm
chầm lấy.
-
Lâu nay mày bị chúng nó cùm ở cái xó nào mà bây giờ mới phá xiềng lên được đây?
- Anh Thiện hỏi.
-
Tao không bị cùm, mà tao bị quản thúc. - Anh Bình trả lời.
-
Thôi, bây giờ mày không đi đâu cả. Cứ ở đây mà nghiên cứu sách báo. Rồi sẽ có
người đến phân công công việc. Nhưng tao nghĩ, mày nên về nông thôn Hà Nam quê mình mà
hoạt động, để lấy chỗ đứng sau này.
-
Ừ, tao nghe mày. - Anh Bình cười, trả lời.
Anh
Thiện ở trên một gác xép, lối lên gác là một cầu thang gỗ ọp ẹp và có lối trèo
lên mái ngói. Khi có động là vọt lên mà chạy. Anh Thiện thường vắng nhà cả ngày,
có khi cả đêm. Một mình anh Phu độc quyền căn gác. Ngày đêm cứ khép cửa lại,
bật đèn lên mà đọc sách. Nào là Lao động "Le Travail", Tập hợp
(Rassemble- ment), Tiến lên (En Avant), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix), rồi
Đời mới, Tiếng vang, Kiến văn, Hồn trẻ, Tân xã hội, Thời báo, Thời thế, Bạn
dân, Tin tức, Đời nay, Người mới, Tiền phong, Việt dân, Lao động, Dân chúng ...
Rõ
ràng tinh thần, trí tuệ, ý trí của cả một dân tộc đều hội tù về đây. Rồi những
cuốn sách kinh điển Mác-xít dày cộp. Anh Phu mê man đọc, nghiền ngẫm, nhập tâm.
Có những vấn đề cần thiết phải ghi chép, anh ghi vắn tắt vào cuốn sổ nhỏ.
Gần
được ba tuần lễ thì vào một chiều thứ bảy, chị Đường chạy lên báo: “Có thầy Lý
dưới phố lên chơi”. Anh Phu vội vàng tống đống sách báo vào chiếc hòm gỗ. Vừa
lúc đứng dậy thì thầy Lý đã đứng trước cửa. Anh Phu giật mình thì ra thầy Lý là
anh Hạ Bá Cang. Hôm nay, anh khăn áo chỉnh tề, ô cắp nách lại để bộ râu quắp
nên rõ dáng thầy lý phong lưu. Anh Phu mừng rỡ mời anh Cang vào rồi khép cửa
cài then. Hai người cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ. Anh Cang niềm nở hỏi:
-
Cậu đọc được nhiều chưa ?
-
Cũng ngốn được khá, anh ạ.
-
Qua những tờ báo công khai của Đảng, cậu hiểu thế nào?
-
Quả là người dân Việt Nam, đặc biệt là những người lao động nghèo khổ, đã nói
lên được tiếng nói của mình trên các báo chí công khai của Đảng. Đã phản ánh
lên được sức mạnh bão táp cách mạng của quần chúng. Đồng thời bằng thực tế
tranh đấu đã làm sáng tỏ cho phần lý thuyết mà anh em mình đã học trong nhà tù
Côn Đảo. Phải không anh?.
-
Cậu nói đúng. Bằng chứng là đây.
Anh
Hạ Bá Cang rút bên trong chiếc áo dài the thâm ra một tờ báo và chỉ ngón tay
vào một đoạn có gạch chỉ đỏ:
Trong
thư gửi Quốc tế nông dân đề ngày 5 tháng 11 năm 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đã nêu Hà Nam trong số những tỉnh có phong trào nông dân khá trong cao trào
cách mạng 1930 - 1931.
Anh
Hạ Bá Cang chiêu một ngụm nước chè nóng, rồi đặt chén xuống sàn gỗ, vẻ thận
trọng, anh nói nhỏ:
-
Phu ạ, hôm nay mình thay mặt anh Đặng Xuân Khu đến gặp cậu. Chúng mình muốn cậu
tiếp tục về dưới Hà Nam
hoạt động, gây dựng phong trào dưới ấy. Vì nó là cả một vùng đồng bằng rộng lớn
gồm mấy tỉnh phía nam Bắc Kỳ, quan trọng lắm đấy. Mai đây tớ sẽ về với các cậu.
Không
cần phải đắn đo gì, anh Phu trả lời:
-
Vâng. Tôi cũng đã có ý định như vậy. Mong các anh thường xuyên có chỉ thị và
sớm về với chúng tôi.
Đêm
nay, anh Phu hồi tưởng lại kỷ niệm cũ ngoài Côn Đảo…
…
Vào một buổi chiều, có một người tù cộng sản chân đi tập tễnh, mới được chuyển
từ banh “cấm cố” sang banh “khổ sai”. Chiều ấy, vừa đi khiêng đá lên dốc Ma
Thiên Lãnh về, người bạn tù nọ chủ động đến gặp anh. Sau nụ cười cởi mở và cái
bắt tay rất chặt, người ấy hỏi luôn:
-
Cậu là Phạm Văn Phu?
-
Vâng.
-
Tớ là Hạ Bá Cang, quê Bắc Ninh. - Rồi anh vui vẻ nói - Cái hồi ở xóm Chiếu bến cảng
Sài Gòn, anh Ngô Sĩ Quyết có kể nhiều về vai trò của cậu với đồn điền cao su Phú
Riềng. Việc ấy chuyển trời đấy. Khá lắm!
-
Vâng, cũng là do sự chỉ đạo sát sao của anh Quyết. - Anh Phu đáp lại.
-
Này, - anh Cang nói liền một mạch - chúng nó đày bọn mình ra Côn Đảo không chỉ
tiêu diệt ý chí tranh đấu mà tiêu diệt cả con người. Hồi mình ở Hải Phòng, Hà
Nội rất hăng, hơi tý là hô “đả đảo”. Hoặc nhịn ăn vứt cơm cả ra cửa sổ xà lim.
Vì là giữa Thành phố nó sợ phiền phức, nó phải giải quyết những yêu sách. Ra
đây giữa trời biển có khác… Nhưng không thể sống thế này được. Sống thế này chỉ
có chờ chết. Làm người cộng sản, người của giai cấp thợ thuyền, quyết không thể
xuôi tay chờ chết, phải tranh đấu, phải học tập, phải đòi cải thiện đời sống,
phải vượt biển để trở về đất liền hoạt động.
Cách
nói đầy sức lôi cuốn, thuyết phục của anh Hạ Bá Cang làm anh Phu càng thêm vững
niềm tin sắt đá vào ngày mai.
Hôm
sau, anh Ngô Gia Tự cho biết: "Anh Hạ Bá Cang tham gia hoạt động cách mạng
từ năm 1925 cùng với Lương Khánh Thiện ở Hải Phòng. Năm 1929 vào Nam Kỳ gặp Ngô
Gia Tự và Lê Văn Lương để đi "vô sản hoá". Cuối năm 1929, đoàn thể cử
xuống làm thợ sửa chữa máy dưới tàu Săng-y-ty để sang Pa-ri liên hệ với Đảng
Cộng sản Pháp, tranh thủ giúp đỡ của các đồng chí Pháp, lấy tài liệu, sách báo.
Cuối tháng giêng 1930, anh trở về Sài Gòn và được đoàn thể cử luôn ra Bắc dự
Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng và gặp đồng chí Trần Phú tại hội nghị
chính thức bầu Trung ương Đảng. Sau hội nghị đồng chí Hạ Bá Cang bị bắt do
Nghiêm Thượng Biền phản bội, bị chúng đánh què một chân. Về xà lim bị tra chân
vào cùm sắt, chân sưng ú lên, lúc mở cùm không rút ra được bị hỏng chân thành
tật từ đấy.
Khi
anh Phu được bầu vào Ban Chấp hành Đảng uỷ Côn Đảo, chính anh Hạ Bá Cang đề
xuất phân công anh Phu chỉ đạo công tác giao thông liên lạc và làm kinh tế.
Thế
rồi thực hiện nghị quyết chi bộ, hai anh em bí mật sửa soạn cho một số đồng chí
vượt Côn Đảo về đất liền hoạt động. Thầm lặng mà sôi nổi... Tổ chức đóng bè,
đóng thuyền rồi quyên góp tiền, gạo, đường sữa, thịt khô... Lần này anh em rút
kinh nghiệm ba lần trước, cả ba lần đều bị vỡ bè. Đồng chí ta người chết, người
bị trở lại giam hầm tối. Đã ba lần làm lễ tưởng niệm những đồng chí hy sinh
trên biển. Lần thứ nhất tưởng niệm đồng chí Lương Văn Tụy, bè vỡ chết. Lần thứ
hai tưởng niệm đồng chí Hới, Bí thư chi bộ đầu tiên ở Đảo. Lần thứ ba thì cũng lại
vỡ bè, chết hết.
Những
kỷ niệm bi hùng cứ lần lượt hiện về...
Và,
giờ đây Hạ Bá Cang đang sống và hoạt động giữa lòng Hà Nội với vị trí trong Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản. Là thượng cấp của anh Phu.
* *
*
Trở
lại Bình Lục quê nhà, anh Phu tìm những "Bạn ở làng Tiêu", đi tìm
những cậu học trò Trường Kiêm Bị, đi về Hưng Công, Cổ Viễn, Bồ Đề... nơi có
phong trào quật khởi của nông dân Hà Nam. Anh đi tìm những người đồng
chí...
Và
anh về chùa Dâu, một ngôi chùa nằm u tịch bên cạnh miễu Dâu, một cái miễu hoang
rộng trừng mười mẫu ta. Cây cối um tùm rậm rạp. Quanh năm chim cò về làm tổ.
Những đồng chí cách mạng trung kiên của Bình Lục cũng thường xuyên về đây họp
mặt.
Đây
rồi Lê Hiền (tức Khoa "trố") người làng Dâu; Đinh Hiếu, Ngọc, Dũng,
Hải ở Tiêu Động; Bảy, Bút, Đồ Điền, Long Khánh, chị Khuyến, chị Kiện ở vùng
Hưng Công, Ngọc Lũ, Phan Hồng, Phan Ứng, Phan Y ở Trường Kiêm Bị... Anh Phạm
Văn Phu vô cùng vui sướng được sum vầy trong tình đồng chí, tình quê hương. Và,
được bắt tay vào hoạt động cách mạng ngay giữa quê nhà.
* *
*
Chùa Dâu, mùa đông 1938
Một
đêm trăng. Cảnh chùa tĩnh lặng, chỉ có con đường độc đạo vào chùa, còn tứ bề
trăng nước. Xa xa phía đường quốc lộ, thấp thoáng mấy con thuyền câu đang bập
bềnh giăng lưới. Ấy là thuyền của đội viên Xích vệ canh gác cho hội nghị chi bộ
đang họp trong chùa. Khi có động, họ đồng thanh gõ lưới ròn rã để trong chùa
biết. Ngoài tam quan, vài ni cô đi lại nghe ngóng canh chừng.
Trong
chùa, vị sư già trải chiếu xuống nền gạch để anh em cùng ngồi xếp bằng một cách
thoải mái. Đồng chí Bí thư Huyện uỷ Phạm Văn Phu ăn mặc nâu sồng, đứng sau
chiếc bàn gỗ mộc, bên cạnh đặt đĩa đèn dầu sở, chập chờn soi trang sách. Nhìn
khắp một lượt, anh em ai nấy đều im lặng, anh bắt đầu vào hội nghị:
- Thưa các đồng chí, - Anh thong thả trình bày
về tình hình thế giới - Hiện nay Chính phủ bình dân Pháp đã đổ. Chính phủ Pháp
phản động do Đa-la-đi-ê làm Thủ tướng cầm quyền. Thực dân Pháp lại tiếp tục thi
hành chính sách khủng bố phong trào cách mạng ở Đông Dương. Bọn phản động thuộc
địa nay lại trắng trợn ra mặt đàn áp phong trào. Chúng mở những cuộc vây bắt
những người cách mạng một cách ráo riết.
Ngay ở địa bàn Bình Lục ta, mật thám về Hưng
Công truy lùng những người hoạt động cách mạng. Nhưng không bắt được ai. Chúng
kéo lính về nằm ăn vạ hàng tuần, bắt trâu bò, lợn gà ăn uống tốn kém của dân
nghèo. Và quyết liệt hơn, tên Công sứ Hà Nam đã sức giấy về cho các chánh
tổng, lý trưởng các nơi phải cấm ngay các hội Ái hữu. Mặt khác, mật thám truy
lùng các cơ sở in ấn và phát hành tài liệu cách mạng. - Bằng giọng trầm, tha
thiết, anh nói tiếp - Theo nhận định của Trung ương: Thời kỳ dân chủ đến đây là
chấm dứt. Giờ đây, Trung ương đã chuyển hướng chỉ đạo sang thời kỳ mới, thời kỳ
chiến tranh cách mạng. Thưa các đồng chí, lúc này hơn bao giờ hết, đảng viên
chúng ta lại càng sát cánh bên nhau để giữ vững niềm tin cho quần chúng. Và
tiếp tục lợi dụng tình hình chính trị để lãnh đạo đấu tranh hợp pháp, nửa hợp
pháp một cách linh hoạt nhằm mục đích đòi cơm áo, tự do, dân chủ cho nhân dân.
Hội
nghị trở lên trầm lặng. Vị sư già đem chai dầu sở từ dưới nhà Tổ lên đổ thêm vào chiếc đĩa đèn. Ngọn đèn bỗng bùng lên,
lướt soi những khuôn mặt khắc khổ, sạn màu sương gió, những ánh mắt kiên nghị
của từng đồng chí trong chi bộ.
* *
*
Mùa đông 1939
Tỉnh uỷ Hà Nam họp mở rộng
ở Cổ Viễn, Bình Lục. Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương lần VI. Và thống
nhất nhận định hình thức hoạt động công khai không còn phù hợp, cần gấp rút đưa
mọi tổ chức vào hoạt động dưới hình thức bí mật.
Hội
nghị kiện toàn bộ máy lãnh đạo, cử ra Ban Tỉnh uỷ mới do đồng chí Phạm Văn Phu
làm Bí thư.
Từ
đây, các đảng viên hoạt động đã chắp mối liên lạc. Các tổ chức quần chúng biến
tướng dưới hình thức các hội tương tế, hiếu hû, lợp nhà, hội cày, hội cấy... được
mở rộng đi vào hoạt động bí mật. Đã xuất hiện nhiều cơ sở vững chắc như: Cỗ
Viễn, Hưng Công (Bình Lục), Phù Đê, Cao Mật (Kim Bảng), Khoái, Quán (Thanh
Liêm). Phong trào cách mạng trong tỉnh đang đi vào củng cố và phát triển thì
những sự kiện mới dồn dập diễn ra:
- Tháng 6 năm 1940, Chính phủ Pháp đầu hàng phát
xít Đức.
-
Tháng 9 năm 1940, Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương
Trước
cảnh áp bức bóc lột của hai tên đế quốc, nhân dân cả nước quyết nổi dậy chống đế quốc Pháp và phát xít Nhật.
-
Ngày 23 tháng 9 năm 1940, Bắc Sơn khởi nghĩa.
-
Ngày 23 tháng 11 năm 1940, Nam Kỳ khởi nghĩa.
Tinh
thần đấu tranh cách mạng của quần chúng nổi lên khắp nơi, báo hiệu cuộc vũ
trang khởi nghĩa sẽ nổ ra trong phạm vi toàn quốc.
Trước
những sự kiện bất thường diễn ra dồn dập trong cả nước, ngày 30 tháng 10 năm 1940,
đồng chí Phạm Văn Phu họp Tỉnh uỷ để thảo luận chỉ thị của Xứ uỷ Bắc Kỳ về
"Chủ trương gấp rút chuẩn bị điều kiện tới khởi nghĩa giành chính
quyền".
Bình
Lục là nơi cơ sở Đảng và quần chúng vững mạnh. Tỉnh uỷ chọn là căn cứ khởi
nghĩa. Đồng chí Phạm Văn Phu, Bí thư Tỉnh uỷ, trực tiếp về Hưng Công chỉ đạo.
Cơ quan ấn loát của Xứ uỷ cũng chuyển về đây.
Một
chiều cuối thu 1940, đồng chí Phu với vai thầy lang, khăn đóng áo the, vắt vẻo
tay nải thuốc sau vai, đi về nhà anh Lê Hiền, Bí thư Huyện uỷ Bình Lục, ở làng
Dâu. Anh Hiền có cụ Bát Tùng là cậu ruột đang làm Chánh tổng. Ông cụ có tư
tưởng tiến bộ. Trước có tham gia phong trào Văn thân chống Pháp giờ đây, cụ quyết thúc giục con cháu noi bước cha ông. Cán bộ
của Đảng đều lấy nhà cụ làm chốn đi về.
Chiều
chạng vạng tối, anh Lê Hiền mới từ dưới cơ sở bơi thuyền câu về. Anh em vui
mừng gặp nhau. Anh Hiền nói vừa gặp Đinh Hiếu, Phan Ứng ở thôn Vị Hạ. Anh Phu
sốt sắng hỏi:
-
Tớ đang cần gặp các cậu ấy.
-
Gặp ngay đêm nay? - Lê Hiền hỏi.
-
Được thế thì hay lắm. Tình hình công việc khẩn cấp, cần bàn với các đồng chí.
-
Được thôi, anh ạ. Việc này chắc ông cậu tôi giúp được.
-
Bằng cách nào?
-
Ông cụ cho trương tuần đem thuyền đi đón ngay.
-
Thế thì tốt rồi.
Hai
người cơm nước xong, đang ngồi hầu chuyện cụ Bát, thì ngoài bờ ao đã có tiếng
lệch kệch gác mái chèo, rồi tiếng chao chân dưới bậc đá. Cả hai anh Đinh Hiếu,
Phan Ứng có mặt, rất may lại có thêm cả chị Khuyến. Ba người lẳng lặng theo bác
Trương Kiện đi xuống dưới nhà ngang. Ngôi nhà ba gian có cửa ngách thông sang
nhà bên. Ngôi nhà lâu nay thường là nơi diễn ra những cuộc họp kín của các đồng
chí đảng viên ở phía tây bắc Bình Lục.
Mấy
anh em ngồi quây quần trên chiếc ổ rơm. Đĩa đèn dầu sở đặt lên nắp tráp, đặt ở
giữa. Một không khí ấm cúng bao trùm. Ngoài cổng, bác Trương Kiện chống tay
thước đứng canh gác. Phải nói bác Trương cũng chẳng kém một trang hảo hán. Bác
có thân hình cao lớn như hộ pháp, khuôn mặt chữ điền, nước da ngăm đen, bộ râu
quai nón, nói năng ồm ồm như sấm. Bác đã từng làm thợ đốt lò dưới tàu biển đi
Hồng Công. Bác có học được một ít võ Tàu rồi tham gia phong trào đấu tranh của
công nhân đất Cảng. Bị bắt hụt, bác trốn về quê. Từ ngày ấy, bác được làm gia
nhân tin cậy của gia đình cụ Bát. Đêm nay, bác chống tay thước đứng đấy như
thách thức với kẻ địch…
Cuộc
họp bắt đầu. Đồng chí Lê Hiền, Bí thư Huyện uỷ Bình Lục với bộ quần áo nâu mới
nhuộm vỏ, khăn bông quấn cổ, đứng sau chiếc bàn gỗ mộc, ngọn đèn dầu để bên, mở
quyển số lấy số liệu báo cáo với đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ về công việc chuẩn bị
vũ trang khởi nghĩa ở huyện nhà. §ång chÝ Phạm Văn Phu cúi đầu lẳng lặng ghi
chép…
-
Về lực lượng vũ trang, - Anh Lê Hiền báo cáo - hiện nay ở các xã đều thành lập
đội tự vệ. Hơn một chục lò rèn trong huyện đang ngày đêm rèn vũ khí: dao găm,
kiếm, mã tấu, giáo búp đa... Vũ khí đang được chuyển gấp về các đội tự vệ để
kịp thời luyện tập. Kết hợp với việc chuẩn bị khởi nghĩa, những cuộc đấu tranh
của quần chúng do các chi bộ Đảng lãnh đạo đòi giảm thuế thân, chống bắt phu
bắt lính và đòi các quyền lợi thiết thực vẫn diễn ra liên tiếp ở các xã Bồ Đề,
Hưng Công, Ngọc Lũ, Vũ Bản, Đồng Du, Tràng An, Tiêu Động... Hiện nay, khí thế
chuẩn bị khởi nghĩa của quần chúng cách mạng rất sôi động, chỉ còn chờ lệnh.
Anh
Phu phấn khởi, nhận xét: "Tôi rất tin tưởng vào sự tổ chức của các đồng
chí, vào sức mạnh quần chúng huyện nhà. Ngày mai tôi và đồng chí Lê Hiền đi
kiểm tra một số nơi. Giờ đây, các đồng chí vẫn tiếp tục củng cố lực lượng để
chờ lệnh".
* *
*
Một
tuần sau tại đình Cổ Viễn, một đêm cuối đông, đồng chí Phạm Văn Phu chủ trì
cuộc họp Tỉnh uỷ. Đồng chí Bút trình bày kế hoạch khởi nghĩa với nội dung:
-
Đánh mìn phá sập cầu Phủ Lý trên đường số 1 phía bắc tỉnh lỵ, phá sập cầu Bằng
Khê trên đường 21, phía nam, nhằm cô lập thị xã Phủ Lý. Cắt đứt tuyến viện binh
của Pháp từ Hà Nội xuống, từ Nam
Định lên.
- Về lực
lượng, ta thuyết phục được hai trại lính khố xanh ở chợ Bầu. Có năm đảng viên
nằm trong lính để chỉ đạo. Xích vệ đội ở Kim Bảng có một trăm đội viên, ở Thanh Liêm có một trăm, Bình Lục có ba trăm
và lực lượng quần chúng cách mạng hùng hậu. Xứ uỷ đã kịp gửi về một số mìn để
phá cầu.
Hội nghị
thống nhất, hãy nén lại vài ngày để kiểm tra sự chuẩn bị của các cơ sở một lần
cuối.
Nhưng
liền hôm sau, đồng chí Phạm Văn Phu nhận được tin báo gấp từ Xứ uỷ: Cuộc khởi
nghĩa ở Bắc Sơn,
khởi nghĩa Nam Kỳ đã lần lượt thất
bại!
Sau
khi nghiên cứu tình hình đồng chí Phu triệu tập gấp cuộc họp Tỉnh uỷ mở rộng để
báo cáo tinh thần của Xứ uỷ.
Trong
cuộc họp, đồng chí phân tích lý do thất bại của hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam
Kỳ. Đồng chí nói trường hợp tỉnh ta cũng tương tự như vậy. Lực lượng địch còn
quá mạnh. Lực lượng cách mạng còn mỏng, việc chuẩn bị khởi nghĩa mới chỉ ở
trong phạm vi hẹp. Do đó, Xứ uỷ có chỉ thị rút kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa mà
tập trung thành các hình thức đấu tranh
khác.
Quả
nhiên mấy ngày sau, lính từ trên Hà Nam rầm rập đổ xuống Bình Lục. Lính khố
xanh cùng lực lượng mật thám, sen đầm từ Nam Định kéo lên. Hai tên Công sứ,
Tuần phủ Hà Nam
cùng viên Tri phủ Bình Lục cùng về trực tiếp chỉ huy cuộc càn quét, khủng bố.
Với phương châm "Chặt đầu, phá tổ, nhổ rễ" hòng tiêu diệt tận gốc lực
lượng cách mạng địa phương. Chúng tiến hành bủa vây, càn quét liên miên suốt
mấy ngày ở các làng thuộc bốn tổng: Cổ Viễn, Yên Đổ, Ngọc Lũ, Vũ Bản của Bình
Lục và đã bắt đi khoảng hai trăm người, gồm nhiều đảng viên và quần chúng cách
mạng. Chúng bắt đi cả những người dân làm nghề rèn. Gây một không khí ngột ngạt
cả một vùng rộng lớn.
Sau
vụ đàn áp, khủng bố của địch, Ban Chấp hành Tỉnh uỷ Hà Nam còn bốn đồng chí đã bí mật liên lạc được với nhau
và đã có cuộc họp tại một gia đình cơ sở ở thôn Cổ Viễn để bàn cách củng cố lại
phong trào.
Đồng
chí Bút đưa ra một nghi vấn, rằng sau hôm địch càn quét dữ dội ở Bình Lục thì
một đồng chí đảng viên thuộc chi bộ Phủ Lý chạy xuống mật báo: Nửa đêm hôm ấy,
chính đồng chí nhìn thấy Giáo Hựu đi xe tay từ trong Dinh Công sứ Hà Nam ra.
Anh Phạm Văn Phu chợt nghĩ, đã có vài lần họp Tỉnh uỷ, Hựu tỏ thái độ lừng
chừng, thậm chí từ chối trách nhiệm, chính anh trực tiếp phê phán và uốn nắn.
Không còn nghi ngờ gì, anh kết luận: Hựu đã làm AB[4].
Cuộc
họp đang bàn thì bọn mật thám bất ngờ ập vào. Một tên lăm lăm khẩu súng sáu
trong tay. Trong lúc nhốn nháo, anh Phu đạp tung bức vách đất phía sau rồi vọt
ra ngoài chạy thoát.
Đêm ấy, anh Phu đi một mạch qua đất Lý Nhân tới bờ
sông Hồng, tìm đò để vượt sông sang Thái Bình, kịp thời báo cáo tình hình với
Xứ uỷ. Nhưng đêm khuya, sông vắng. Nhìn mặt sông loang loáng mênh mông, anh
thấy rợn người. Không còn đường nào khác, nếu quay lại sẽ sa vào tay giặc. Lập tức gỡ phăng quần áo, quấn lên đầu, anh bơi
sang sông. Tuy gió buốt căm căm nhưng
nước sông thì ấm. Lên tới bờ, gió bấc ùa về, hai hàm
răng va vào nhau lập cập.
Anh mặc vội quần áo rồi nằm co giữa rãnh khoai lang mà ủ cho lại sức.
Được một lát,
thấy đôi mắt lim dim, anh ngồi dậy, nhìn về phía làng chỉ thấy một dải đen kịt
dưới sao đêm. Từ phía ấy thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng chó sủa. Anh đứng lên,
phủi đất cát, đi vào trong làng. Tới một gia đình cơ sở anh khẽ gọi cửa. Chủ
nhà là một ông cụ già nhỏ thó, hỏi nhỏ qua khe cửa. Nhận đúng tín hiệu, ông cụ
hé cửa, anh Phu lách vào. Đĩa đèn dầu sở được châm lên đủ soi mặt người. Sự ấm
cúng gia đình đang hiện dần. Ông cụ đi đến giường anh Hạ Bá Cang, khẽ bấm vào
người. Như sẵn phản xạ, anh Cang bật dậy. Nhận ra nhau, thấy mặt anh Phu tái đi
vì rét, vì đói, anh Hạ Bá Cang liền tung chiếc mền chăn đang đắp quàng cho anh.
Ông cụ chủ nhà lẳng lặng xuống bếp nhóm lửa, đun siêu nước nóng, rồi hạ chiếc
niêu đất bỏ vào nắm gạo, nắm đỗ, ninh nồi cháo loãng cho hai anh em.
Trên
nhà anh Hạ Bá Cang chăm chú nghe anh Phu báo cáo tình hình. Để bảo vệ một đồng
chí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, anh Hạ Bá Cang lưu anh Phu ở lại làm việc tại
cơ quan Xứ uỷ. Sau một tháng, anh Phạm Văn Phu nhận nhiệm vụ của Xứ trở về Hà
Nam gây lại phong trào.
Với
vai anh hoạn lợn, quần nâu áo vá, chân đất, anh tìm về các cơ sở cũ. Một hôm
anh về làng Dâu, Bình Lục, vừa tới lối rẽ từ đường cái quan vào làng, bỗng có
tiếng chân bước gấp phía sau. Anh quay lại thì cả hai mũi súng sáu chĩa vào
mặt. Một tên dõng dạc tuyên bố:
-
Anh đã bị bắt.
- Làm sao tôi bị bắt? - Anh Phu hỏi lại.
Bọn
chúng cười khẩy:
-
Rồi anh sẽ rõ.
Chúng
liền khám người anh. Chẳng thấy có gì ngoài cuộn chỉ gai và con dao hoạn lợn.
Nhưng chiếc còng số tám đã xiết chặt hai cổ tay anh. Chúng áp giải luôn về Phủ
huyện. Chiếc xe hòm đã chờ sẵn ở cổng huyện đường. Anh đã bị sa vào lưới mật
thám.
Chiếc
xe hòm chở anh Phu vừa dừng trước cổng nhà lao Nam Định đã nghe bên trong tiếng
xích kêu loảng xoảng. Hai cánh cổng sắt rít lên rồi hé mở. Chúng đẩy anh lên
phòng để sẵn những dụng cụ tra tấn. Viên giám ngục người Pháp, mặt đỏ, râu sồm,
mắt xanh, đứng chặn trước cửa. Anh vừa đặt chân lên bậc thềm, hắn liền vung roi
da quật túi bụi vào mặt, vào đầu anh. Đôi tay bị còng quặt phía sau lưng, anh
chỉ còn biết quay mặt sang bên phải, bên trái mà tránh. Rồi bỗng phốc một cái,
cú giày săng-đá móc ngược bên hông, anh đổ nhào, ngất lịm. Viên giám ngục ngừng
tay với chai rượu trắng trên bàn, ngửa cổ tu ừng ực. Một lát sau chừng anh đã
tỉnh, hai tên lính được lệnh xông vào
xốc nách anh đứng dậy. Viên giám gục gườm gườm nhìn anh rồi gằn giọng hỏi:
-
Mày tên là Phu?
Anh
Phu đứng thẳng người, mặt mày sưng húp. Mặc cho máu trên đầu vẫn còn chảy xuống
mặt, nhìn thẳng vào mặt hắn, anh trả lời:
-
Vâng, tôi tên là Phu.
-
Mày có chân trong Tỉnh uỷ Hà Nam?
-
Tôi là dân phu phen, làm ăn, tôi không biết gì những việc ấy.
-
A. Mày thách đố?
Hắn
rít lên. Rồi lại trận mưa roi cá đuối, dùi cui. Rồi lại đấm, đá. Tả xung hữu
đột. Miệng anh ộc máu tươi. Ngã vật xuống sàn xi măng, chúng giội vào người anh
thùng nước lạnh. Được một lúc chúng lại dựng anh dậy.
-
Chính mày có chân trong Tỉnh uỷ Hà Nam, đã từng tổ chức nhiều vụ bạo
động - Tên giám ngục lại rít lên, hỏi tiếp - Chính là mày, không đứa nào khác?
- Các ông căn cứ vào đâu mà buộc tội cho tôi?
-
Được, tao sẽ "lộn mề gà" mày để cho mày thấy “căn cứ”.
Và thế là một trận tra tấn khốc liệt
nữa bắt đầu.
Đợt tra tấn này
kéo dài liên miên suốt mấy ngày. Chúng đánh ngày, đánh đêm. Có khi anh Phu đang
ngủ, chúng đột ngột dựng dậy, tra tấn, bắt anh phải nhận là
người cầm đầu Tỉnh uỷ.
Gần
một tháng, không moi được chứng lý nào để buộc
tội, chúng phải thả anh về chịu quản thúc ở quê.
* *
*
Trời
tháng ba làng Đồng Chuối một màu xám ảm đạm. Ngoài đồng lác đác đó đây mấy bóng
người rách rưới, vai vác cuốc, tay cắp rổ đi mót những rãi khoai còn xót lại
trên ruộng. Chắc họ cũng đang đói lắm, nên dáng đi vật vờ như những chiếc bóng.
Bỗng một người đàn bà nhìn thấy anh về, chị vứt rổ, vứt cuốc chạy lại gục xuống
vai anh, nức nở khóc. Anh Phu đỡ người ấy rồi bình tĩnh hỏi:
-
Nhà có điều gì vậy, hả chị?
-
Mợ Vòng... mợ Vòng, cậu ơi... Mợ Vòng và cháu chết rồi! - Chị lại tru chéo gào
lên - Ối trời cao đất dày ơ... ơ… ơi!
Anh
Phu, mặt tái đi. Không nói, không khóc mà nhìn đất trời như đang quay cuồng,
như sụp đổ. Vậy là hai mẹ con sau một cơn bạo bệnh, không thuốc thang lại đói
khát, đã...!
Trở
về gian nhà xiêu hoang vắng và lạnh lẽo, anh bàng hoàng nhìn những kỷ vật nghèo
của vợ con còn đó. Anh chạy sang nhà ông bác họ, nhưng ông cụ mất từ đầu tháng
trước. Anh tìm đến những bà con xóm mạc,
họ
cũng đều tứ tán tha phương.
Chiều.
Anh và người chị họ chít vành khăn tang, tay anh cầm bó hương trầm ra đồng thăm
viếng mộ vợ và đứa con trai xấu số. Nhìn hai ngôi mộ mới rầu rầu ngọn cỏ, lòng
anh quặn thắt. Những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống nấm mộ. Anh đứng lặng giữa
làn khói hương lan tỏa trong gió chiều.
Mặt
trời đã khuất sau rặng núi đá xanh phía rừng Bồng Lạng nhưng vẫn hắt lên những
tia sáng hình rẻ quạt. Hai chị em ra về trong chiều xám hắt hiu.
Còn
đâu nữa những gì vấn vương!?
Hôm
sau, anh vào trong Thanh Liêm, tìm về những cơ sở cũ Tiêu Bảng, Nhuộng, Khoái,
Quán, Kim Lũ, để dựng lại phong trào.
Một
lần, anh về làng Cẩm để gây thêm cơ sở mới. Tổ chức địa phương đưa anh đến ở
gia đình một đồng chí đã hy sinh trong cuộc đấu tranh của công nhân mỏ ngoài
Cẩm Phả. Nhà có một người mẹ và anh con trai đã lớn. Hôm ấy, đã trưa rồi mà mẹ
con cứ lúi húi dưới bếp mới quấy nổi nồi cháo cám. Múc ra vừa được ba bát.
Người mẹ bảo anh con trai: "Này cái ông khách trên nhà liệu ông ấy có ăn
không? Con bưng lên hai bát". Anh con trai lập cập bưng lên. Anh Phu vội
ra đỡ lấy bát cháo cám màu nâu sậm. Anh giữ người con trai ngồi lại, hai chú
cháu cùng nâng bát cháo, xì xụp. "Ối dào! Ngon lắm!" - Anh Phu thốt
lên, ngồi ăn liền một mạch. Đặt bát đũa xuống, cầm khăn lau mồ hôi toát ra hai
bên thái dương. Cậu con trai đưa anh chiếc tăm và bát nước vối.
Xong
bữa trưa ngon lành, anh Phu ngồi soạn tài liệu. Xế chiều, anh khoác tay nải ra
đi.
* *
*
Tại
vùng Bói Thuỷ, phía tây nam Bình Lục có ông Quỹ Chước là chủ cơ sở thêu ren và
đan chữ. Trong nhà lúc nào cũng có vài ba chục người ở các nơi về làm thuê.
Hàng đều xuất đi các tỉnh Hà Nội,
Nam Định. Cứ
ban ngày anh em mải miết làm, ban đêm cùng nhau học chữ quốc ngữ.
Một
hôm có thầy lang khăn đóng áo the, vắt vai chiếc tay nải thuốc nam đi về nhà
ông Quỹ. Thấy bảo là chỗ bạn hữu, thân tình đi lại từ lâu, cứ ban ngày thầy
lang khoác tay nải ra đi, tối lại về nhà ông Quỹ. Tính nết thầy xuề xoà, cởi
mở, nói năng khoát đạt. Tình hình thế giới, tình hình trong nước, thầy tinh
thông mọi nhẽ. Cứ tối đến thầy triệu anh em lại, dưới ánh đèn dầu lạc, vừa đan lát
vừa nghe thầy nói chuyện. Cũng chỉ là những câu chuyện thường nhật mắt thấy tai
nghe vậy thôi. Nhưng qua sự giảng giải của thầy, anh em hiểu được nỗi nhục mất
nước, nỗi cơ cực lầm than của kiếp người nô lệ. Tự liên hệ bản thân ai nấy càng
nghĩ càng thấm thía.
Về
sau ai cũng biết thầy lang ấy là đồng chí Phạm Văn Phu, cán bộ Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Sau khi học thành nghề, anh em trở về địa phương bắt tay vào hoạt động cách
mạng dưới sự chỉ đạo của đồng chí Xứ uỷ.
Trở
lại với gia đình nghèo ở cơ sở làng Cẩm. Vừa bước qua cái sân đất rêu phong,
anh thấy người mẹ mặt mày xanh tái, chỉ còn da bọc xương đang nằm co ro trong
chiếc ổ rơm dưới bếp. Chị ta bị bệnh thương hàn. Thấy vậy, anh Phu liền vào bắt
mạch cho chị. Đoạn, anh lúi húi mở túi thuốc. Quay lại, anh thấy người mẹ tội
nghiệp run rẩy kéo vạt áo lau nước mắt. Anh hỏi, chị ta trả lời:
- Thưa ông, cháu biết ông lấy thuốc cho cháu,
nhưng nhà cháu nghèo lắm biết lấy đâu ra tiền để giả ông được. Thôi đành để cho
ông giời bắt sao, cháu chịu vậy. Cháu cũng chẳng thiết sống nữa. Sống mà chẳng
cho ra cái giống người. - Chị lại hu hu khóc - Cháu chỉ nghĩ thương thằng con
mà chưa chết được.
-
Không lo, chị phải sống! - Anh Phu gạt đi - Không có tiền thì tôi có lấy tiền
đâu. Cứ yên tâm mà uống thuốc cho khỏi bệnh, chị ạ. Chị phải cố mà sống để rồi
xem cuộc đời sẽ đổi thay.
Chiều hôm ấy,
anh ngồi hỏi chuyện người con trai đang ngồi đan giỏ.
-
Này, cho chú hỏi: Cháu có hiểu vì sao nhà mình nghèo khổ? Cả làng mình nghèo
khổ không?
Cậu
con trai ngẫm nghĩ một lát rồi nói lên những lời từ gan ruột:
-
Thưa chú, khi thầy cháu còn vẫn thường nói "Không ai giàu ba họ, chẳng ai
khó ba đời". Vậy mà nhà cháu theo các cụ truyền lại tính cũng đã trọn ba
đời ăn cháo cám rồi, chú ạ. Cháu nghĩ ở trên đời này không gì khổ nhục bằng cái
đói, cái nghèo.
-
Ừ, cháu đã biết nói lên được những điều như vậy. Đúng cái nghèo còn đi với cái
hèn. Mà cái hèn thì bao giờ cũng bị kẻ mạnh nó ức hiếp. Thành ra cũng một đời
người mà sống chẳng cho ra kiếp người. Ở chung quanh ta đều là những người nghèo.
Cả làng ta nghèo, cả nước mình nghèo. Mà chỉ có người nghèo mới biết thương
nhau thôi. Vậy chú lại hỏi: Kẻ giàu sang họ là người thế nào?
Như
được khơi mạch nguồn, cậu con trai kể một cách tự nhiên:
-
Thưa chú! Cả vùng này chỉ có một ông Chánh tổng Phát là giàu nứt đố, đổ vách.
Có thằng con trai bằng tuổi cháu, nó đỗ cái bằng "Yếu lược". Ông ấy
mở tiệc khao có mời quan Tây và đầm đi ô tô về làng. Quan ta thì đi xe tay, xe
ngựa. Cỗ bàn thì có rượu tây, dê tái, bê thui, chim quay, gà tần và mấy ả đào cùng
bác cung văn vào đàn hát. Khi vào tiệc thì bỗng có hai bà cháu ăn mày rách
rưới, gầy guộc từ ở đâu dắt nhau vào xin ăn. Lập tức đàn chó tây được tháo xích
xồ ra. Con chồm lên đầu bà cụ, con tợp vào dái thằng bé. Thằng bé kêu gào thất
thanh rồi ngất lịm. Ở trong nhà khách, bọn Tây, đầm, bọn quan ta nhìn ra hô hố
cười ngặt nghẽo. Mấy người đàn bà thợ cấy đi qua, thấy vậy họ ùa vào người xốc
thằng bé trên tay, người dìu bà cụ. Tất cả họ bước thẳng lên nhà khách. Một chị
đáo để nói to: "Giống chó các ông ăn thịt người đây này. Các ông tính
sao?". Để cho yên chuyện, Chánh tổng Phát sai trương tuần đem mấy hào ra
cho để bịt miệng rồi mọi người cười nói cho át đi. Đoàn thợ cấy ôm thằng bé
trên tay ra về, máu từ háng thằng bé nhỏ giọt từ nơi bàn tiệc ra tới cổng. Hôm
sau, người ta thấy bà lão ăn mày ngồi ôm lấy xác thằng bé ở cạnh cái điếm canh
đầu làng. Chẳng biết bà lão quê quán ở đâu, chỉ biết bà cụ móm mém ngồi khóc
cháu thảm thiết!
-
Đấy! Cháu thấy không? Nó đấy. Nó là cái thằng Tây cướp nước, cái thằng nhà giàu
tay sai bán nước. Chính chúng nó đã giết cha cháu, chúng nó cấu kết với nhau để
giết dần, giết mòn dân nghèo.
Anh con trai im lặng, rơm rớm nước
mắt, nhìn vào không gian sâu thẳm… Anh
Phu lại hỏi:
-
Chứng kiến những cảnh như vậy, cháu nghĩ thế nào?
- Thưa chú,
cháu căm lắm. Nhưng chưa biết làm sao được.
-
Hôm nay, chú nói thật để cháu được biết: Chú là người của Đảng, đang hoạt động
cách mạng ở vùng này cũng như cha cháu khi còn sống hoạt động ở ngoài vùng mỏ.
Cháu đã lớn rồi, cháu có dám làm những việc như cha cháu không?
-
Dạ. Cháu xin sẵn sàng!
-
Nhưng làm cách mạng là gian lao lắm. Cháu có sợ chết không?
-
Nếu được theo các chú đi giết chúng nó để trả thù cho cha, cháu chịu được hết.
-
Không chỉ trả thù cho cha cháu mà cái lớn hơn, cao cả hơn là lật nhào ách thống
trị của thằng Tây, thằng tay sai như Chánh Phát để rửa cái nhục mất nước cho
toàn dân Việt. Để rồi ai ai cũng được ấm no, hạnh phúc. Cháu nên hiểu cho chú
như vậy.
-
Dạ, cháu hiểu.
-
Tốt lắm! Rồi đây cháu phải học hỏi nhiều mới có thể làm việc được. Vậy làng ta
có bao nhiêu thanh niên như cháu?
-
Dạ. Có độ mươi lăm người.
-
Tốt rồi. Từ tối mai cháu triệu tập tất cả về đây cho chú gặp.
-
Vâng!
Anh
con trai trở nên hoạt bát, linh lợi hẳn.
Tháng
sau, ở làng Cẩm, đội tự vệ được thành lập, đội trưởng là anh Trung, người con
trai ấy. Suốt mùa trăng, họ tập côn, tập gậy, tập võ thuật. Vậy là cứ đêm đêm,
nhóm thanh niên ấy, giắt cờ đỏ, truyền đơn vào trong người rồi vác gậy lẳng
lặng toả đi tận các làng xa. Để rồi sớm hôm sau, người ta thấy từ các ngọn cây
đa, cây mít đã phất phới lá cờ đỏ búa liềm trước sự giật mình của bọn hương lý.
Còn bà con dân làng thì xúm lại nghe người ta đọc những tờ truyền đơn dán ở đầu
đình, rồi tụm năm, tụm ba xì xào bàn luận. Ai nấy đều hy vọng một cái gì đó
thật tốt đẹp sẽ bùng lên ở làng quê này.
Như
những đốm lửa mới nhen, rồi bùng lên nơi này, nơi kia. Các cơ sở đã mạnh dần.
Bọn mật thám căm lắm, chúng tung tay chân đi tìm tung tích Phạm Văn Phu.
Dạo ấy, ở làng Đô Hoàng, bắc Ý Yên, giáp với Thanh
Liêm có tên Hoàng Nhượng Tống[5]
là một thủ lĩnh cực đoan nhất của Quốc dân Đảng phản động. Hắn đã cùng ngồi
chung một khám tù với Phạm Văn Phu ngoài Côn Đảo những năm 1930. Ngay những
ngày ngồi tù hắn đã lưu manh hoá. Bọn chúng đã dùng dao chém giết lẫn nhau. Mãn hạn tù khi chia tay, hắn nói với anh Phu: "Thôi các cậu còn đang hăm hở, các cậu
cứ tiếp tục đi theo con đường các cậu theo. Còn tớ vì hoàn cảnh cha già, mẹ
yếu, vợ dại, con thơ, tớ phải về quê làm ăn".
Hắn về quê mở hiệu thuốc bắc ở quán Chàm bên đường
đi chợ huyện Thành Cách, giáp Thanh Liêm.
Nhưng thực ra, hắn lấy nơi đó để tập hợp
những phần tử phản động để phong toả, kiểm soát cả một vùng rộng lớn. Mặt khác
hắn đưa mật thám về truy bắt anh Phạm Văn Phu.
Vào
một chiều mùa đông, có một anh nông dân, quần nâu áo vá, quần xắn đến lưng bắp chân, đầu đội chiếc
nón mê, khoác áo tơi lụi, quảy đôi quang giành đi trong mưa bụi, qua quán Chàm
về làng Đoan Vĩ. Chiều đã chạng vạng, người ấy lùi lũi quảy gánh vào cổng sau nhà ông Lý Tính. Đặt gánh xuống sau bếp
rồi anh ta nhanh nhẹn bước xuống cầu ao để tắm rửa, thay quần áo. Bỗng cô con
gái ông Lý nhăn nhăn cái mũi gọi mẹ:
-
U ơi! Cái nhà anh này có cái gánh gì mà thối thối là.
Bà
mẹ liền khẽ suỵt một tiếng rồi gọi cô con gái lại nói nhỏ vào tai câu gì. Cô
gái hiểu ra, liền chạy vào bếp xúc sảo gio đem ra đổ lên hai cái giành rồi chặt
thêm hai tàu lá chuối đậy lại để sớm mai cho anh ấy lại "quảy gánh"
ra đi.
Người
nông dân ấy là Phạm Văn Phu. Lần này anh cải trang thành người đi gắp phân để
kiểm tra các cơ sở. Suốt một chặng đường dài từ Bói Kênh, Bói Thuỷ (Bình Lục),
Tiêu Bưởng, Nhuộng (Ý Yên), cuối cùng anh dừng lại làng Đoan Vĩ - cái làng địa
đầu giáp danh ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, nơi mà "con gà gáy ba
tỉnh cùng nghe". Rất thuận lợi cho việc giao thông liên lạc đi các tỉnh mà
cũng là một miền quê "sơn thuỷ hữu tình."
Vâng,
bờ sông bên kia bến Khuốt có chùa Địch Lộng nằm trong một cái hang đá rộng trên
lưng chừng núi, được xếp vào danh thắng "Trời nam đệ nhị động". Đối
diện bên sông là mỏm núi đá nằm sát bên bờ. Từ thuở hồng hoang Tạo hóa đã nặn
nên một hình hài lãng mạn, khiến cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương qua đây phải dừng chân
lưu bút, tạc thơ lên vách đá:
Hai
bên là núi giữa là sông
Có phải đây là…
Vâng!
Đây là Kẽm Trống để đến nỗi Vua Minh Mạng thuở nào đi kinh lý qua đây, đã lệnh
cho dân chúng đôi bờ chỉ trong một ngày đêm phải khơi thông một nhành sông phụ
cho thuyền Rồng chèo lướt, chứ quyết không chịu chui:
Qua cửa mình ơi nên ngắm lại
Và
kia, khiến du khách không khỏi bâng khuâng chạnh lòng khi viếng thăm ngôi chùa
Trinh Tiết, nằm đơn côi trên núi Bổ Đà. Cách đây năm trăm năm có lẻ, nàng Bạch
Hoa, công chúa đời Trần tìm về đây lánh nạn nơi cửa Phật. Truyện kể rằng: Năm
Mậu Dần (1438), Hồ Quý Ly bắt ép Vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử
Trần Ái mới ba tuổi. Trần Thị Bạch Hoa là chị gái của Trần Ái lúc đó mười bảy
tuổi, được Hồ Nguyên Trừng thương tình cho người đem thuyền chở đi lánh nạn.
Nguyễn Bằng Cử bí mật đi hộ tống nàng. Tới vùng Đoan Vỹ Thanh Liêm, thấy phong
cảnh hữu tình, nàng cho thuyền dừng lại chọn đất dựng chùa, dốc lòng thờ Phật,
làm những việc công đức cho dân tình. Trước cảnh non nước, mây trời kỳ tú, nàng
đã viết cuốn "Cô ai trường hận" nhưng chưa bao giờ đọc cho ai nghe.
Cảnh tịch mịch cô liêu mãi còn đây. Một nhân chứng cho nỗi niềm u uẩn về một
triều đại suy vong.
Và
đây nữa, Bến Vua cuối thôn Đoan Vỹ ghi dấu tích Vua Lê Thánh Tông, một vị vua
hiền tài nhất của bao thời, trên đường đi dẹp giặc ở phương nam, đã dừng chân
tại bến sông này để lên viếng thăm ngôi đền thờ một vị tướng là người con của
làng đã giúp Lê Lợi đi dẹp giặc Minh.
Giờ
đây, lại cũng chính nơi này có ông cụ của làng đêm đêm chở đò cho anh sang sông
đi hoạt động ở vùng Ninh Bình.
Cuộc
đời là dâu bể thăng trầm. Chỉ biết rằng nơi đây như hội tụ hồn thiêng sông núi.
Phạm Văn Phu đã về đây với những người nông dân nghèo nhưng giàu lòng vì nghĩa
cả. Ở đây có cả những ông lý, ông chánh có chút chữ nghĩa nên thức thời. Họ một
lòng ủng hộ cách mạng.
Thế
rồi một đêm đông, dưới ngôi nhà ngang nhà ông Lý Tính có tổ chức một buổi lễ
tuyên thệ. Đêm ấy có mặt các ông Chánh Thật ở trên Cổ Động xuống, anh Ký Nhân
từ bên Trung Hiếu sang, ông Tổng Phương, rồi các ông Trương Xuyền, ông Lý Tính,
bác Sủng, anh Nghiêu, anh Giả, các chị Non, chị Hồng, chị Đượm, chị Thưởng, chị
Binh Thệ và vài bác tuần phu...
Mọi
người ngồi trật tự trên những chiếc chiếu đậu xuống nền nhà. Ai nấy yên lặng,
hướng lên lá cờ đỏ sao vàng được treo cao, trên cái bàn gỗ. Phía dưới là chiếc
lư đồng sáng choang, đặt giữa chiếc án thư sơn son thiếp vàng, đang nghi ngút
toả hương trầm, thơm ngào ngạt.
Anh
Phạm Văn Phu đứng bên hương án, trịnh trọng tuyên bố khai mạc buổi lễ tuyên
thệ. Tờ giấy trắng rộng đã được viết những lời thề bằng mực đỏ, kiểu chữ viết
to, rõ ràng nắn nót. Bác Sủng là người có chữ nghĩa lại có giọng tốt, xưa nay
chuyên đọc văn tế ở đình làng, nay được giao đọc.
Mọi
người đứng lên, bác Sủng khoan thai bước đến đứng bên chiếc lư đồng đang nghi
ngút khói hương. Anh Phu đứng bên kia. Trong không khí nghiêm trang, bác Sủng trịnh
trọng dâng tờ tuyên thệ lên trước mặt, bằng một giọng sang sảng bác thong thả
đọc:
-
Chúng tôi, những người dân Đoan Vỹ đã
được cách mạng giác ngộ, nay đứng trước vận mệnh nước nhà đang trong cảnh lâm
nguy, chúng tôi cùng hội về đây dưới cờ. Trước lá cờ Tổ quốc, chúng tôi xin
thề:
1. Kiên quyết một lòng theo Đảng, bảo vệ cách mạng, cùng đồng bào cả
nước tham gia cuộc đấu tranh đánh đổ Pháp - Nhật và bè lũ tay sai giành Độc
lập, Tự do cho toàn dân.
2.
Tuyệt đối giữ gìn bí mật các cơ sở Đảng. Nếu bị địch bắt bớ tra tấn, tù đầy,
quyết sẵn sàng sống chết với kẻ thù, quyết không đầu hàng khai báo.
3.
Thực sự đoàn kết thương yêu nhau trong tình làng nghĩa xóm. Ra sức tăng gia sản
xuất lấy lương thực chống đói và ủng hộ cách mạng.
Đọc
xong ba lời thề, bác Sủng ngẩng mặt lên hỏi mọi người: "Thưa các chư vị,
chúng ta có bằng lòng cả như vậy không?". Thấy một người giơ cao tay, đồng
loạt cả bấy nhiêu người cùng giơ cao tay. Cốc rượu trắng từ trên hương án được
đưa xuống, truyền qua tay từng người. Mỗi người dùng mũi kim tự trích máu trên
đầu ngón tay mình, nhỏ một giọt vào cốc. Sau đó, anh em chuyền tay nhau nhắp
chung cốc rượu thề.
Đêm
ấy, tiếp tục cuộc họp. Chừng đã khuya, từ dưới nhà bếp có tiếng lộc cộc bát
đũa. Chị Thưởng cô con gái ông Lý Tính và chị Non, khệ nệ khiêng nồi cháo gà
lên đặt ở giữa nhà. Nồi cháo bốc hơi nghi ngút, lan toả một mùi thơm ngào ngạt.
Cuộc họp tạm dừng, chồng bát đũa được bưng lên. Mọi người cùng xúm lại xì xụp
vài lưng cháo loãng cho ấm bụng.
Ăn
uống xong, ai nấy ngồi xung quanh nghe anh Phu kể chuyện. Nhưng lần này anh
nhắc về truyền thống quê hương.
Rằng
ngay từ năm 1930, chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên của huyện Thanh Liêm
đã được thành lập ngay quê ta. Đồng chí Nguyễn Văn An ở Cổ Động được bầu làm Bí
thư chi bộ. Hôm nay nhân đây, chúng ta ai đã từng tham gia thời kỳ đó, xin kể
lại một vài kỷ niệm để bà con cùng nghe.
Mọi người
nhìn nhau. Một lát, bác Sủng liền đứng dậy xin được kể một câu chuyện. Nhìn mọi
người im lặng đợi chờ, bác đằng hắng giọng, thong thả kể:
-
Vâng, tôi còn nhớ hồi ấy vào cuối tháng chạp năm 1929, có cậu ấm Phương từ
trong xứ Thanh ra đây, chuyên làm nghề phong thuỷ, xem đất cát làm nhà cửa, để
mồ mả tổ tiên, việc dạm hỏi cưới xin… Cậu ấm thường đi lại nhà anh Ký An trên
Cổ Động. Cứ sáng ra, cậu diện chiếc áo dài thâm, quần chúc bâu trắng, đeo cặp
kính đen, chân xỏ đôi giày Gia Định, dương chiếc ô tàu ra đi. Chẳng biết cậu đi
những đâu. Nhưng cứ chiều chiều lại về, ngồi ở quán nước ông Đồ Bảng ven đường
quan lộ mà khôi hài với khách hàng rằng: "Thời buổi này, tôi nay đây mai
đó. Các ông bà muốn tìm được tôi thì cứ ra đứng giữa giời, ngẩng mặt lên mà
khấn". Ông nói vậy. Nhưng cứ đêm đêm vào khoảng 9 giờ tối lại có cuộc họp
kín ở nhà anh Ký An, người điều hành cuộc họp lại chính là ông thầy địa lý ấy.
Những đêm họp hành như vậy, bà cụ thân sinh ra anh Ký cùng thức để chăm lo, săn
sóc. Họp xong, cũng như đêm nay, bà cụ lại khệ nệ bưng nồi cháo lên, anh em ăn
uống xong rồi ra đi trước khi trời sáng.
Thế
rồi, vào một buổi sớm tinh mơ năm ấy, ngoài cánh đồng thôn Cổ Động, người ta
nhìn thấy những vết chân kỳ lạ. Họ phao rằng đêm qua có hổ về. Lại có người nói
là lốt chân người bị xoá vết. Chưa rõ ra sao thì ngẩng lên đã thấy lá cờ đỏ búa
liềm phấp phới bay trên cây đa đình làng Thượng và trên cây gạo làng ta. Còn
truyền đơn thì rải tứ tung khắp đường làng, dán cả trên các cổng gỗ nhà giàu
với nội dung tuyên truyền khích lệ lòng yêu nước trong đồng bào. Và, vạch trần
tội ác của đế quốc phong kiến. Sau được biết đây là tổ chức Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội do anh Ký An và cậu ấm Phương xây dựng.
Sau
đó ít lâu… Vâng, tôi nhớ hôm ấy vào ngày 22 tháng 2 năm 1932, bọn mật thám mở
cuộc càn quét, khủng bố ráo riết ở vùng này. Chúng bắt được anh Ký An đang trực
tiếp chỉ đạo phong trào quần chúng đấu tranh chống tô tức. Chúng lấy báng súng
đập anh một nhát vào đầu, anh loạng choạng đổ nhào xuống rãnh đường. Nhưng anh
không chết. Chúng trói tay chân anh lại rồi xỏ chiếc đòn khiêng vào. Đám lính
khố xanh thay nhau khiêng anh như khiêng con lợn. Vâng, hôm ấy tôi thấy máu anh
An rỏ xuống dọc đường. Chúng tống anh lên chiếc xe hòm chở lên Sở Mật thám. Ở
đấy, chúng tra tấn anh chết đi sống lại nhiều lần. Anh một mực không khai báo
điều gì. Chúng kết án anh Ký ba mươi năm tù ở Hoả Lò. Đâu như giờ đây, anh Ký đang
ngồi ở nhà ngục tận trên Sơn La.
Không
khí trở nên tĩnh lặng. Mọi người như đang suy nghĩ về sự dũng cảm của người Bí
thư chi bộ. Anh Phạm Văn Phu đứng lên, với giọng nhỏ nhẹ: "Thưa bà con,
như vậy là máu của chiến sỹ cộng sản đầu tiên của quê ta đã đổ xuống đất quê
ta. Giờ đây, phong trào đấu tranh cách mạng đang lên mạnh. Làng ta sẽ là đầu
mối giao thông quan trọng đi khắp Bắc, Trung,
Nam. Trước mắt
là của Liên khu C (Hà - Nam
- Ninh - Thái). Là nơi mà Trung ương và Xứ uỷ qua lại. Gian lao, thử thách đang
chờ chúng ta phía trước. Tôi xin nhắc lại bà con, không phân biệt giàu nghèo,
sang hèn, chúng ta đều là con dân của làng, là người dân nô lệ mất nước. Tôi
mong mọi người trước hết hãy đoàn kết, thương yêu nhau, noi gương đồng chí
Nguyễn Văn An mà giữ trọn lời thề với cách mạng.
Đêm ấy, trăng hạ tuần đã xế sang dải núi đá xanh
bên sông. Ánh trăng mờ soi thấp thoáng những bóng người toả về các xóm nghèo.
* *
*
Sau
mấy hôm, vào một chiều đông, có một anh lái buôn, ăn vận nâu sồng, quần bỏ lá
tọa, vai quảy đôi lồng gà, mỗi lồng nhốt một con gà sống, tấp tểnh đi vào trong
xóm. Anh ta cất tiếng rao: "Ai bán gà không?". Chị Thưởng, con gái
nhà ông Lý Tính, hiểu ý liền gọi vào.
Người
buôn gà tên là Lý, cầm giấy triệu tập của Xứ
điều anh Phạm Văn Phu đi dự lớp huấn luyện bên Thái Bình. Đêm ấy, anh
Phu bàn giao các cơ sở Bình Lục, Ý Yên, Gia Viễn, Thanh Liêm cho anh Lý. Hai
người trao đổi công việc cho tới khuya.
Mờ
sáng hôm sau, lại với vai thầy lang, khăn áo chỉnh tề, anh Phu giương ô lên
đường. Anh đi theo đường tắt qua các làng. Gần trưa thì tới làng Yên Đổ vùng
quê anh. Qua vài ngõ đã thấy một tờ yết báo dán ở đầu đình, nội dung: “Lệnh
truy nã tên Phạm Văn Phu! Nếu ai thấy, gặp người có cặp mắt hơi xênh xếch, đóng
vai thầy lang, hoạn lợn hay thợ gánh phân, có tên là Phu, Phú, Phủ hay Phù thì
phải báo ngay cho quan lĩnh thưởng!”. Anh liền quay trở ra thì đã thấy từ đằng
xa có hai tên lính cơ[6]
nghênh ngang khẩu súng trường, đi về phía làng. Anh đành rảo bước vào một gia
đình cơ sở. Anh chủ nhà đang mình trần, đóng khố, vác dậm ra đồng. Anh liền
ngăn lại, bấm vào vai người ấy, rồi nói: "Mày quăng cho tao bộ quần áo nâu
cũ, một chiếc đòn gánh và một chiếc bị. Tao trút bộ cánh này ra. Tao xuống Nam Định đi
gánh gạo thuê. Tao phải đi khỏi đây ngay. Chúng nó đang lùng đằng sau".
-
Không được. Bây giờ anh hãy ở đây đã! - Anh chủ nhà điềm tĩnh nói - Anh vào
trong buồng nhà em mà nằm. Em khoá cửa lại rồi vác dậm ra đồng thì bố chúng nó
cũng không biết được. Anh đi lúc này nguy hiểm lắm.
-
Mày nói đúng. Nhưng nội đêm nay tao phải có mặt bên Thái Bình để kịp sớm mai
vào lớp học.
-
Được rồi! Đúng giờ ngọ em trông đường cho anh đi. Giờ ấy là an toàn.
Đến trưa, người vợ anh ta bưng vào trong buồng
lưng rá cơm gạo đỏ độn ngô, một đĩa cua rang và một bát rau luộc. Anh Phu ngồi
ăn đàng hoàng. Ăn xong, uống bát nước vối, anh đứng lên, miệng ngậm chiếc tăm
rồi khoác bị, vác đòn gánh ra đi. Lần này anh phải đi vòng để tránh mật thám
nên tới bến đò Tân Đệ thì trời đã tối sầm, lại nổi cơn giông, mưa gió mịt mùng.
Đò nghỉ, gác mái không sang nữa. Đêm ấy, anh nằm vạ ngoài thềm nhà đò, gối đầu
lên hòn gạch mà chợp mắt cho qua đêm.
Mờ
sáng hôm sau, anh xuống đò sang sông, đặt chân lên đất Vũ Thư, Thái Bình, đi
một thôi đường dài rồi rẽ tới xóm Bống, vào nhà một cơ sở để trút bộ đồ cà khổ.
Một lát sau, anh Phu đã trở thành một ông chánh phong lưu, xúng xính trong
chiếc áo cánh lụa mỡ gà rộng thênh, chiếc quần lụa trắng, đầu đội khăn nhiễu
tím, chân đi đôi giày nam rồi dựng ô lục soạn, ung dung bước theo đám người đi
lễ chùa. Dọc đường, những con nhang đệ tử, thiện nam tín nữ thấy anh, họ đều
cúi đầu chào lễ phép.
-
Kính ông ạ!
-
Không dám. - Anh Phu hơi cúi cái đầu, đáp lễ.
Tới cổng chùa
thì gặp một trương tuần, đang đứng chống chiếc tay thước. Anh ta vội cúi đầu:
-
Dạ, bẩm ông đã sang.
-
Anh ra đây có việc gì? - Anh Phu lạnh lùng hỏi.
-
Dạ, cụ Bá nhà con đang mong ông. Cụ sai con ra đón.
-
Nhà có việc gì mà ghê vậy?
-
Chả là chiếu bạc hôm nay có cả cụ Tuần trên tỉnh và cụ Huyện đang chờ ông.
-
Tổ tôm, xóc đĩa hay chắn, tài bàn?
-
Dạ, tổ tôm ạ.
-
Ừ, thì đi.
Hai
thầy tớ đi khuất sau luỹ tre làng. Anh trương tuần bước lên hỏi nhỏ:
-
Anh vừa bên Hà Nam
sang?
-
Ừ. Đêm qua tao phải nằm làm mồi cho muỗi ở bên kia Tân Đệ.
-
Đại biểu các tỉnh đều đã có mặt. Chỉ còn thiếu anh. Sáng nay lớp học bắt đầu.
- Tốt rồi.
Cũng vừa may. Thôi ta rảo bước.
Lớp
học của Xứ được mở ra ở một ngôi chùa. Trong bảy mươi hai ngôi chùa thờ Nguyễn
Minh Không thì chùa này to và đẹp nhất. Chùa dựng trên hai mươi mẫu đất, thành
một hình chữ nhật lớn, xung quanh có hành lang. Ngoài là chùa thờ Phật, trong
thờ ông Khổng. Trong cùng là một tam quan xây công phu và đẹp, cao ba tầng. Tất
cả nhà chùa là một trăm năm mươi bảy gian. Anh Phu đi qua nhà Tổ rồi sang nhà
giảng. Ngó vào thấy anh Hạ Bá Cang đang say sưa giảng bài. Anh Phu lẳng lặng
bước vào ngồi bên chiếc cột cái, phía cuối lớp. Giờ giải lao, anh Hạ Bá Cang
vẫy anh Phu ra bên bờ hồ sen ngồi trao đổi.
-
Này, - Anh Hạ Bá Cang hỏi - Có ý kiến cho rằng không nên sử dụng cánh hương lý.
Vì họ là tay chân cho đế quốc, phong kiến, dùng họ lỡ ra thì sao. Vậy ý cậu thì
thế nào?
-
Đúng. Đã có ý kiến đặt ra như vậy. - Anh Phu trả lời - Nhưng trong số họ có
người tốt, thực sự giác ngộ cách mạng thì ta phải đến với họ. Sử dụng được họ,
họ sẽ nuôi dấu che chở. Họ cấp thẻ cho đi lại tự do. Khi cách mạng cần họ sẽ
dốc của cải ra ủng hộ, bên Hà Nam
đã có những ông chánh, ông lý phải ngồi tù vì tội nuôi dấu cộng sản.
Anh
Hạ Bá Cang tỏ ý vui, anh nói:
-
Các cụ xưa có câu "Dụng nhân như dụng mộc". Ta tăng bạn bớt thù. Quỹ
Đảng còn quá nghèo, ta phải dựa vào dân mà hoạt động. Kế của cậu là đắc sách,
mình biết bên Hà Nam
của cậu, phong trào đang lên mạnh. Sau khoá học này tớ điều cậu đi. Để cậu Lý về thay. Lý cũng cán bộ Xứ uỷ,
nó quê ở Ninh Bình, cũng năng lực lắm đấy. Cậu yên tâm!
Một
tuần lễ trôi qua, các học viên trở lại với các vai thầy lý, thầy lang, anh nông
phu, anh trương tuần, anh lái buôn…quay về với tỉnh mình. Riêng anh Phu được
anh Hạ Bá Cang lưu lại.
Cảnh chùa trở lại vắng hưu, u tịch.
Sau
bữa cơm chiều chay tịnh, các vị ni cô bước lên nhà Tổ, thắp đèn nến sáng
choang. Sư cụ lại ngồi dưới đài sen giọng kinh cầu đều đều theo nhịp mõ. Dưới
nhà, anh Hạ Bá Cang pha ấm trà sen. Hai người ngồi trao đổi công việc. Anh Cang
nói:
-
Hiện nay trên Liên khu D đang cần một cán bộ của Xứ về lãnh đạo phong trào. Hôm
nay, mình xin thay mặt cho Trung ương và Xứ uỷ điều cậu lên trên ấy. Cậu thấy
thế nào? Liệu có gì lấn cấn không?
Ngẫm
nghĩ giây lát, anh Phu trả lời:
-
Về riêng tư, tôi không có vương vấn. Về việc nước tôi theo anh, đang nặng gánh.
Nợ non sông mà.
-
Mình trao đổi sơ qua về địa bàn hoạt động trên ấy để cậu nắm sơ bộ. Ta uống
nước đi đã.
Nâng
chén trà nóng rồi khẽ nhấp. Một vị chát đậm, ngòn ngọt nơi cổ, thấy lòng thư
thái. Đặt chén trà nóng xuống tấm phản, anh Hạ Bá Cang nói tiếp:
-
Liên khu D gồm Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên. Cả ba tỉnh đều thuộc vùng trung
du Bắc Bộ. Ngược lên phía bắc, núi đồi trùng điệp như bát úp. Nông sản chủ yếu
là cọ và chè. Công nghiệp có nhà máy Việt Trì, có mỏ ở Tuyên Quang. Có đồn luỹ
của Pháp ở một số nơi. Đặc biệt là có Đền Hùng Vương, hàng năm có đồng bào cả nước về lễ hội. Về phong trào quần chúng
cách mạng và các tổ chức cơ sở Đảng, cậu về trên ấy sẽ cụ thể hơn.
Nhấp
thêm chén nước, anh Phu hỏi:
-
Vậy ngày nào lên đường?
-
Có thể ngày kia. Ở đây có mấy gia đình lên Phú Thọ khai hoang lập ấp, cậu nhập
vào với họ cùng đi.
* *
*
Về
Liên khu D
Ga Nam Định,
mật thám nổi chìm đông như rươi. Chốc chốc lại có thằng cha diện đồ pi-gia-ma
bằng vải lụa tơ tằm, đội mũ phớt, đeo kính đen, cưỡi chiếc xe đua ghi đông bò
tót lượn lờ nhìn ngó, hoặc ngồi ở một quán nước đằng xa để theo dõi ai đó mà
hắn tình nghi. Bọn pú-lit thì thằng nào cũng lăm lăm trong tay chiếc roi cá đuối,
nhìn xoi mói đám dân chúng đang tất tưởi qua lại. Anh Phu cùng bà con Vũ Thư đi
khai hoang cũng nhập vào đoàn người khốn khổ ấy.
Tàu
tới ga Hàng Cỏ thì kịp chuyển sang tàu Bắc. Như vậy là chặng đường nguy hiểm
nhất đã trót lọt.
Con
tàu dập dềnh qua cầu Long Biên sang Gia Lâm, ngược dần lên phía bắc. Xa xa là
dãy Tam Đảo xanh rì. Qua ga Hương Canh, Vĩnh Yên là thấy những triền đồi xanh dần
hiện lên như bát úp. Qua Việt Trì thì đồi cọ, đồi chè nối tiếp nhau triền miên.
Trên những sườn đồi ven đường thấp thoáng bóng áo chàm trên nương. Tiếng mõ
trâu lóc cóc đâu đây. Những chùm hoa gió ngả nghiêng rung trước gió chiều.
Đồi
núi trung du một màu xanh thẳm.
Đặt
chân lên đất Cầu Ngang Phú Thọ, mọi sự như bình yên.
Bà
con dưới Thái Bình lên đây lập ấp rất đông. Họ dựng nhà rải rác ở ven đồi, cạnh
những con suối chảy triền miên như vô tận.
Những
ngày mới lên, anh giả làm người ngụ cư, sống hiền lành giữa những bà con miền sơn
cước, đều đặn sớm hôm cùng mọi người giắt dao, vác cuốc, lên rừng phát nương,
đốt rãy, vỡ đất trồng khoai, gieo lúa nương. Chiều về cùng giáo dân đến nhà thờ
cầu nguyện.
Ở
đây, anh đã hiểu sâu sắc cuộc sống cùng cực của người dân. Họ túng bấn thế nào,
ai ốm đau bệnh tật, ai cầu thực tha phương, ai là dân ngụ cư. Anh thấy cần phải
biết rất rõ đặc điểm từng lớp người, tâm tư tình cảm mỗi người. Họ chuộng gì,
ghét gì, nguyện vọng gì là cháy bỏng nhất đối với họ. Niềm tin đối với họ là
hướng về đâu?
Anh lại trở về vai thầy lang với cái tên
"Lang Khói".
Thầy
Lang lại tay nải vắt vai. Nay vào thung sâu nơi bản Mường, Tày... Mai ra tận
các miền đồng bằng tỉnh lỵ. Ở đâu thấy thầy "Lang Khói" về là họ mừng
lắm. Và dĩ nhiên, anh đã chắp nối được các cơ sở cách mạng ở Liên tỉnh D.
* *
*
Qua
Việt Trì, anh thấy công nhân nhà máy bị chủ ép lao động cật lực, suốt 12 tiếng
trong một ngày. Có người yếu sức đã đổ gục vào cỗ máy, bị nó cán bẹp đầu.
Qua
Đoan Hùng, anh gặp chuyện anh nông dân bị mất mùa liên tục, chẳng có thóc nộp
tô, liền bị điền chủ cướp đất ruộng, đất vườn, chiếm nhà, cướp vợ. Chẳng biết
kêu ai, anh ta phải treo cổ lên cây vải mà tự vẫn.
Qua
các đồn điền ở Tuyên Quang, anh thấy bọn Pháp ngang nhiên chiếm đất đai của dân
sở tại để mở đồn điền. Những người nông dân trở nên tay trắng, đành phải đem
thân đi làm thuê ở đồn điền để nhận đồng tiền công rẻ mạt, để kiếm miếng cơm
manh áo. Họ lầm lũi hôm nay mà chẳng có ngày mai.
Đến
nơi đâu anh cũng chứng kiến nỗi bi thương, phẫn uất của quần chúng lao khổ. Nơi
này đang lặng lẽ rèn dao, đúc kiếm. Nơi kia, đội tự vệ ngày đêm luyện tập. Ở
đâu, anh cũng gặp những gương mặt sạm gầy, nhưng rắn rỏi của những đồng chí
đang chuẩn bị lãnh đạo quần chúng cách mạng bước vào cuộc đấu tranh với giặc.
Sau
khi gặp gỡ trao đổi với ba đồng chí bí thư Ban Cán sự ba tỉnh ở Liên khu, đồng
chí Phạm Văn Phu thống nhất triệu một cuộc họp ở xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông,
Phú Thọ. Đại biểu về họp có mặt đầy đủ. Nội dung là bầu ra Ban Cán sự Khu ủy và
thống nhất kế hoạch lãnh đạo quần chúng bước vào cuộc tranh đấu công khai.
Ban
Cán sự Khu ủy gồm có các đồng chí: Đào
Quang Thái ở Phú Thọ, đồng chí Phước ở Tuyên Quang, đồng chí Lê Xoay ở Vĩnh
Yên. Đồng chí Phạm Văn Phu, Xứ ủy viên kiêm Bí thư Liên khu D.
Nhân
ngày giỗ Tổ ở Đền Hùng, nhân dân khắp nơi đổ về đông nghịt, anh em tự vệ len
lỏi vào đoàn người đi lễ hội để bảo vệ đồng
chí Lê Xoay đứng trên cao diễn thuyết. Được tin, bọn Pháp từ Việt Trì
đem xe ca-mi-ông chở đầy lính lên vây bắt thì mọi việc đã xong, chỉ còn lại
dòng người cuồn cuộn lên xuống mấy ngôi đền.
Ở
Tuyên Quang, Phú Thọ, hàng nghìn anh chị em phu đồn điền và công nhân nhà máy
nổi lên biểu tình đấu tranh với bọn chủ, đưa thư kêu gọi binh lính Pháp và bắt sống tên cai Bộc có nhiều nợ máu với cách
mạng.
Nông
dân phủ Đoan Hùng rầm rập kéo đến nhà
điền chủ ác bá nhất trong vùng, đòi giảm tô, đốt sổ nợ. Ở đồn điền Sóc Đăng,
tên chủ đồn điền người Pháp phải nhượng bộ những yêu sách của nông dân.
Cả
Liên khu D khí thế cách mạng bùng lên như bão táp thì cuối 1941, Xứ ủy lại điều
đồng chí Phạm Văn Phu trở lại Liên khu C.
Sau
khi bàn giao lại cho Ban Cán sự Liên Khu ủy, anh Phu trở lại gia đình anh Đỗ
Văn Mô ở Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ, nơi mà anh gây dựng cơ sở ban đầu. Đó là
một gia đình cách mạng tin cậy.
Sớm
hôm sau, khi trời còn nhá nhem, trước khi xuống đò qua sông Hồng để về Hà Nam,
chị Phi (vợ anh Mô) mời anh Phu ăn chút cơm nguội độn ngô có rắc ít muối vừng
trong một chiếc rá nhỏ. Vừa lấy vạt áo lau nước mắt, chị nghẹn ngào chúc anh
Phu lên đường may mắn, sớm gặp lại sau ngày chiến thắng.
* *
*
Trở lại Liên khu C
Ngày
anh Phạm Văn Phu ra đi phong trào Liên khu
đang có bước phát triển mạnh thì đầu
năm 1942, Đào Năng An, Bí thư Liên tỉnh C, bị bắt do không chịu nổi tra tấn đã
khai báo với địch. Cơ quan Liên tỉnh C đóng ở Hà Nam bị địch khủng bố. Hàng chục cán
bộ, đảng viên bị sa vào tay địch, trong đó có đồng chí Lê Thành phụ trách phong
trào toàn tỉnh. Chi bộ duy nhất còn trụ được ở Nam Định cũng bị phá vỡ trong đợt
khủng bố này.
Vậy
là đồng chí Phu trở về Liên khu C dựng lại phong trào đã bị Đào Năng An triệt
phá gần hết.
Dựa
vào Nghị quyết VIII, căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương, Ban Cán sự tập
trung chỉ đạo một số việc cần kíp:
-
Mau chóng tập hợp các đảng viên vừa đi tù về làm hạt nhân lãnh đạo.
-
Xúc tiến tuyên truyền giới thiệu chương trình đánh Pháp đuổi Nhật.
-
Tổ chức các đoàn thể cứu quốc, xây dựng lực lượng vũ trang.
-
Lãnh đạo quần chúng giành giật những quyền lợi sống còn trước mắt.
-
Phát triển phong trào về nông thôn.
Đồng
chí Phạm Văn Phu Xứ ủy viên, Bí thư Liên tỉnh C, được phân công trực tiếp chỉ
đạo phong trào. Từ đó, phong trào cách mạng Nam
Định, Hà Nam,
được phục hồi nhanh chóng. Nhiều báo chí cách mạng được chuyển về, lưu hành bí
mật trong đảng viên và quần chúng. Cơ sở Đảng Hà Nam dưới sự lãnh đạo của Liên tỉnh
C được củng cố và mở rộng ở Trung Hiếu, Đoan Vĩ, Khoái, Quán. Chùa Lác được
chọn làm nơi liên lạc của Xứ ủy.
* *
*
Một
chiều cuối đông 1942
Từ
bên Thái Bình, đồng chí Đồi (già Đồi) Xứ ủy viên, người kết nạp chị Ức vào Đảng
Cộng sản Đông Dương, đã đưa chị sang làm việc cho Xứ ủy từ tháng 9 năm 1939.
Chị Ức về ở trong một gia đình cơ sở ở
Hưng Công, Bình Lục. Bà cụ chủ nhà,
niềm nở đón chị. Cụ xếp đặt chỗ nghỉ
ngay trong buồng cùng với mình. Sớm hôm sau, chị sà luôn công việc đồng áng,
tằm tơ với gia chủ. Mấy chị em gái trong nhà xem chị như người chị cả. Chị Ức
thấy yên tâm vì được sống xum vầy trong cảnh gia đình nề nếp, ấm cúng.
Một
hôm, sau bữa cơm chiều, chị Ức bê rổ lá dâu non ra ngoài thềm ngồi thái nhỏ cho
tằm con ăn đêm, thì từ ngoài cổng, một người đàn ông cao lớn, mắt hơi xếch ăn
vận nâu sồng, tay nải vắt vai, dáng như một chú khách đi bán thuốc dạo bước
vào. Anh ta lừng lững bước lên thềm. Bà cụ liền nói nhỏ cùng chị: "Anh đây
là Xứ uỷ từ trong Ninh Bình ra. Từ nay con làm việc cho anh ấy".
Thoáng
nhìn cô gái dáng quê mùa, nước da nâu giòn, thân hình chắc khoẻ, có đôi mắt
sáng, vẻ linh lợi, anh Phu trộm nghĩ: Cô
gái này có thể xông pha việc nước được đây.
Chị
Ức buông tay thái dâu, đứng dậy nhanh nhẹn bưng khay chén đặt nhẹ lên chiếc bàn
mộc rồi rót nước mời bà chủ nhà và ông khách.
-
Cô mới ở bên Thái Bình sang? - Anh Phu tay nâng chén nước, quay sang hỏi chị.
-
Vâng thưa anh, em mới sang được ba hôm. - Chị Ức trả lời.
-
May lắm. Khu uỷ đang cần người giúp việc. Để rồi tôi sẽ trao đổi cụ thể với cô
- Anh Phu nhìn chị Ức, nói vui. - Nhưng cô hãy chuẩn bị đôi hài vạn dặm đấy!
-
Liệu có phải chắp thêm đôi cánh nữa không anh? - Chị Ức mỉm cười hỏi lại.
Không
khí trở nên vui vẻ, thân mật tình đồng chí.
Tối
hôm ấy, đồng chí Phạm Văn Phu với tư
cách Xứ uỷ viên, Bí thư Liên tỉnh C, chính thức giao nhiệm vụ cho chị Nguyễn
Thị Ức. Anh nghiêm túc trao đổi:
-
Đây là một cơ sở quan trọng của cơ quan Xứ uỷ. Thường xuyên có thượng cấp đi
về. Mọi công việc phải hết sức cẩn trọng. Việc của ai người ấy làm. Không nên
biết cụ thể công việc của nhau. Mỗi người phải có một cái tên khác, không gọi
bằng cái tên cũ được. Vùng này mật thám đang theo dõi ráo riết. Nhiệm vụ của
đồng chí, trước mắt là làm giao thông liên lạc cho Xứ uỷ. - Anh Phu ngừng lại
nhìn chị Ức như để thăm dò. Chị vẫn chú ý lắng nghe, anh Phu nói tiếp - Trước
hết đồng chí nên hiểu: Giao thông là mạch máu của Đảng. Trong hoàn cảnh hiện
nay sự liên lạc của Đảng không có phương tiện gì khác là dựa vào sức lực, trí
tuệ và tinh thần của con người. Nghĩa là đồng chí sẽ đảm nhiệm một công việc
vất vả và đầy nguy hiểm. Như chuyển thư từ, tài liệu, sách báo, giấy mực in và
đưa đón cán bộ. Chính vì vậy mà đồng chí phải đi nhiều, biết nhiều cơ sở, nếu
không khéo nguỵ trang thì sẽ bị lộ. Nếu không may bị giặc bắt phải giữ khí
tiết. Dù bị tra tấn cực hình đến chết, vẫn một lòng trung kiên với Đảng. Địa
bàn hoạt động của Liên khu khá rộng, bao gồm bốn tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình.
Nghĩa là đồng chí phải thường xuyên đi bộ dài ngày. Nhưng trước mắt đồng chí
hãy hoạt động ở vùng Hà Nam.
Mai đây tuỳ khả năng công việc, tổ chức sẽ giao tiếp - Anh Phu chiêu một chén
nước rồi đặt chén xuống khay, quay sang chị Ức - Đấy công việc là như vậy. Đồng
chí thấy thế nào?
Suy
nghĩ một lát, chị thong thả trả lời:
-
Thưa anh. Là một đảng viên cộng sản, em xin nhận bất cứ việc gì Đảng giao. Xin
anh tin tưởng!
-
Đồng chí hiểu được như thế, tổ chức rất yên tâm. - Anh Phu nói rõ thêm - Công
việc trước tiên, tôi sẽ trực tiếp đưa đường cho đồng chí. Đi đâu, về đâu gặp
mặt những ai, lánh mặt ai? Khi gặp bất trắc, ứng biến ra sao? Rồi phương pháp
tuyên truyền xây dựng các đoàn thể cách mạng… Tóm lại mọi việc phải linh hoạt,
tinh tường. Có thể một ngày gần đây đồng chí lên đường làm nhiệm vụ. Đồng chí
hãy suy nghĩ, xem có điều gì muốn hỏi?
Im
lặng giây lát, chị Ức hỏi:
-
Thưa anh, xin anh hãy cho một vài kinh nghiệm hoạt động cụ thể.
-
Đúng. Việc này ta sẽ trao đổi sau. Còn thực tế trên những chặng đường hoạt động
thì lực lượng quần chúng cách mạng sẽ mách bảo cho ta. Đồng chí yên tâm.
Trao đổi sơ bộ công việc, anh Phu đứng lên vắt
chiếc tay nải sau vai nhanh nhẹn bước ra cổng đi về phía đình Cổ Viễn. Đêm nay
anh ra ngủ với ông thủ từ ngoài ấy.
Đêm
gió mùa đông bắc xào xạc luỹ tre ngoài ngõ. Trong nhà bà cụ đã rải sẵn chiếc ổ
rơm dày. Mấy mẹ con rì rầm trong ổ ấm nồng. Đêm ấy chị Ức miên man trăn trở...
Những chặng đường phía trước sẽ đầy thử thách. Chị sẵn sàng. Cái mà để chị phải
suy nghĩ là làm sao để có được niềm tin với Đảng, với cách mạng.
Hôm
sau, chị tranh thủ xin ý kiến anh Phu, nhờ anh đặt cho một cái tên mới. Ngẫm
nghĩ giây lát, anh Phu thong thả nói: "Cách mạng là đổi mới, không ngừng
đổi mới. Anh đặt tên cô là Tân. Tân nghĩa là mới, được chưa?" Chị Ức cười:
"Ôi, cái tên hay quá! Em cứ nghĩ thôi cứ đặt quách là Chè, là Chĩnh, nó
hợp với cảnh mình".
- Không được!
- Anh Phu nói - Người cách mạng phải có cái tên cho nó đàng hoàng và còn phải
thay nhiều tên khác, để cho thằng giặc nó lần không ra.
Anh
Phu đứng dậy mở chiếc rương gỗ, lấy ra tập tài liệu in ly-tô. Chị Ức ngước nhìn
đồng chí Xứ uỷ, Bí thư Liên khu bằng ánh mắt tin cậy và kính phục.
Hôm
sau, sau buổi trao đổi bàn bạc, anh thấy cần sớm hiểu được lai lịch người cộng
sự. Anh rót một chén nước trao cho chị Ức rồi nói: "Sáng nay ta làm việc
đến đây. Bây giờ dành ít thời gian cô kể sơ anh nghe câu chuyện về gia cảnh nhà
mình. Được chứ?".
Chị Ức lẳng
lặng nhìn bãi dâu xanh qua khung cửa sổ, với giọng nhỏ nhẹ chị kể về quãng đời
mình:
-
Nhà em bên Hưng Nhân, Thái Bình. Cha mẹ nghèo lại đông con, những năm đói chết
mất hai chị gái. Một anh trai đi tha
phương mất tích. Em là em áp út, năm mười hai tuổi thì mồ côi cha. Mẹ em phải
đi làm thuê, bắt ốc mò cua để nuôi nhau. Năm mười sáu tuổi, em đi ở đợ.
Bấy
giờ trong làng có một nhà phú hộ, có con trai, đến dạm em làm vợ. Mẹ thì mừng
lắm, riêng em không bằng lòng vì anh con trai kia kém em bốn tuổi. Thương con
gái út, mẹ em ngày đêm khuyên bảo: "Con gái như hạt mưa sa…Con được bước
vào cửa nhà ấy là ấm thân lắm. Nghe mẹ đi con!". Thế rồi mẹ cứ rỉ rả suốt
như vậy. Cũng đôi lúc mẹ giận em, suốt ngày mẹ chẳng nói một lời. Rồi nghĩ
thương mẹ, em đành nhắm mắt bước chân.
Sau
khi về nhà anh ta, người mẹ chồng trở nên cay nghiệt, coi con dâu như đứa ở.
Hàng ngày, em phải quần quật từ mờ sáng đến tối khuya. Còn anh chồng thì chỉ
mải chơi bời, lêu lổng. Nghĩ mà chán cảnh đời, em liền bỏ nhà chồng, trốn biệt
ra Mông Dương đi làm thuê. Bẵng đi một dạo, người cậu ruột tìm đến được nơi em
làm, cậu khuyên: "Thôi cháu ạ, không lấy người ta nữa thì về nhà với u,
chịu khó làm lụng rồi giả của gia đình họ cho nó đoàng hoàng. Kẻo mang tiếng là
gái "trốn chúa lộn chồng". Hãy nghe cậu đi!". Tin lời cậu, em
về. Được một thời gian, mẹ lại đuổi em về nhà chồng. Mẹ bảo: "Mẹ đã gả bán
cho người ta rồi, không mặt mũi nào như vậy được".
Lần này thì
em đành bỏ nhà đi tu ở chùa Ngọc Cúc, tận ngoài Kẻ Sặt. Khi sắp xuống tóc, quy
y thì một hôm có ông ăn vận áo kép quần hồ, khăn nhiễu, kính đen có bộ râu
vểnh, dương ô đi trước; một anh trương tuần cắp tráp theo hầu. Nói là Chánh
tổng bên Kim Hoa vào vãn cảnh chùa. Hai thầy tớ theo sau Sư cụ lên chùa thỉnh
chuông niệm Phật rồi lại kéo nhau ra vườn cảnh ngắm nghía. Khi ra về Sư cụ đích
thân theo tiễn hai thầy tớ ra khỏi tam quan. Xem vẻ cung kính lắm.
Mấy hôm sau lại có anh hương sư
quần trắng áo trắng, đội mũ cát trắng, cắp cặp đen đến xin nhờ nhà chùa mở một
lớp dạy chữ quốc ngữ. Sư cụ dẫn ông ta xuống nhà học to nhỏ điều gì.
Bẵng
đi mấy hôm, tình cờ em lại thấy cả mấy người hôm nọ đang ngồi luận bàn gì với
nhau dưới bệ Phật trong hậu cung. Sư cụ sai em ra tam quan để canh chừng. Thấy
em nhanh nhẹn, hoạt bát, một hôm cái anh hương sư hỏi em:
-
Cô còn trẻ, đời còn dài lắm. Cô có muốn đi tìm con đường giải thoát cho cuộc
đời.
Em im lặng
suy nghĩ, rồi thư thả trả lời:
-
Em cũng lưu lạc nhiều nơi rồi, ở đâu cũng tối tăm lắm, thưa anh. Em nghĩ cuộc
đời đến bước đường cùng là tìm về nơi
cửa Phật.
- Ấy là cô đã nản lòng đấy. Có một con đường mà
tương lai sẽ sáng lạn, nhưng trước hết phải dám chịu gian khổ hy sinh.
-
Nếu quả thực có như vậy thì em chẳng ngại gì mà không theo con đường ấy.
-
Cô hãy suy nghĩ đi, các anh còn qua lại đây.
Thời
gian sau em được biết ông Chánh tổng nọ là anh Hạ Bá Cang, anh hương sư là anh
Đồi, còn anh trương tuần là anh Lương Hiền.
Lần
sau gặp em, anh Đồi nói rõ: “Chúng tôi là những người cộng sản đi làm cách mạng
đánh đổ đế quốc, để giành Độc lập, Tự do cho dân tộc. Chúng tôi cũng đang cần
những con người từng trải như cô. Vậy cô thấy thế nào?”.
* *
*
Tháng
sau, anh Phu đi Hà Đông bàn về việc phát triển tổ chức và đẩy mạnh phong trào ở
giáp ranh hai tỉnh Hà Đông và Hà Nam để biến thành căn cứ an toàn.
Anh Phu gặp anh Hạ Bá Cang ở Trầm
Lộng, Hà Đông vào lúc trời chạng vạng. Lúc này, anh
Cang mới từ trên sàn gác chuồng trâu nhà chủ
nhảy xuống. Dạo này mật thám lùng sục ráo
riết, mà anh Cang lại đi tập tễnh[7],
dễ bị lộ nên ban ngày không dám đi đâu. Đêm ấy, anh em bàn bạc kỹ để hôm sau
xuống cơ sở. Anh Cang bảo: “Hiện nay ở Yên Trường, Chương Mỹ, có chi bộ mạnh, có nhiều cán bộ trung
kiên, có cơ sở quần chúng đông, có đồng chí mới ở tù Sơn La về. Còn các
làng xung quanh đã có tổ chức Cứu quốc. Ở đấy có cậu Phi[8]
đang phụ trách, ta xuống gặp nó để đi về Ứng Hoà, nam Phú Xuyên - vùng
đồng bằng trũng mà lại rộng, là nơi giáp ranh hai tỉnh có thể xây dựng khu đệm
an tòan”.
Hôm
sau, hai anh em xuống đò dọc có mui che, xuôi sông Đáy. Hai anh em cùng khăn
xếp, áo lương nhưng anh Phu cổ áo dài the đã sờn, khăn xếp đã cũ, tay cầm chiếc
quạt giấy đã rách. Hai anh đến gặp anh Phi vào một buổi chiều muộn, khi chỉ còn
những tia nắng cuối cùng xiên qua luỹ tre ngoài vườn, đúng lúc anh Phi đang lên
cơn sốt rét do muỗi độc vùng Lương Sơn, Hoà Bình. Nhiều người bệnh lá lách sưng
to, bụng như cái thùng. Anh Phi đắp chăn bông, người run cầm cập không thể ngồi
dậy được để tiếp anh Cang và anh Phu. Anh Phi hơi nhỏm dậy thò tay ra nắm lấy
tay các anh. Cả hai anh cùng ngồi xuống cạnh, đặt tay lên chăn thấy người anh
Phi run lên bần bật, đều nói: "Sốt nặng quá!". Hình như hai anh đều
trải qua cái bệnh này. Rồi cả hai người thay nhau nằm, ôm lấy anh Phi cho đỡ
run.
Cụ chủ nhà
nấu cho bát cháo tía tô, còn cụ ông chạy loanh quanh với vẻ lo âu. Hoạt động bí
mật, náu nhờ bà con nghèo, một viên ký ninh cũng không có nhưng anh Phi cảm
thấy mối quan hệ thắm tình cách mạng liên tục đến với anh, phá tan đi cái suy
nghĩ trước đó là không thể tìm đâu ra sự âu yếm, chăm sóc như của cha mẹ, gia
đình.
Sau vài giờ,
cơn sốt rét dứt nhưng miệng còn đắng ngắt, người mệt nhoài. Ăn tô cháo nóng có
trứng xong, anh Phi ngồi dậy thảo luận, nhưng hai anh ấn Phi nằm xuống rồi ngồi
cạnh giường bàn việc. Giọng anh Phu ôn tồn và rõ. Cuộc trao đổi đi tới thống
nhất và khẩn trương triển khai ngay công việc.
* *
*
Trở
lại Hà Nam.
Lúc này quỹ hoạt động của tổ chức chẳng có được bao nhiêu mà công việc thì rất
nhiều thứ phải dùng đến đồng tiền. Đành rằng anh em đi hoạt động đến nơi nào
cũng có dân che chở, rau cháo có nhau, nhưng còn đồng tiền thì dân lấy đâu ra.
Một
lần mang quỹ Đảng từ làng Vạn Phúc, Hà Đông về Quỳnh Lưu, Nho quan cho căn cứ
địa cách mạng, đi bộ suốt ngày đường mà anh chỉ dám ăn ba xu bánh đúc ngô và
vài xu đi đò, uống nước vối.
Một
chiều, anh về làng Dâu, Bình Lục gặp lại bác Trương Kiện, gia nhân thân tín nhà
cụ Bát Tùng, để bàn một việc gọi là "bất đắc dĩ". Sau bữa cơm chiều,
anh đem việc "bất đắc dĩ" ấy ra bàn. Nghe xong, cụ Bát vuốt râu rồi
thong thả nói:
-
Việc làm này là cần thiết. Nên lắm. Đành rằng việc cách mạng là đại sự Quốc gia,
là dài lâu. Nhưng còn khó khăn trước mắt thì sao đây? Người xưa có câu "Dĩ
đoản dưỡng trường".
-
Con xin đỡ lời cụ Bát! - Bác Trương hăng hái - Được, tôi sẽ chọn một số đội
viên Xích vệ mà tôi vừa truyền võ cho họ. Bọn này nhanh mà gan…
-
Nhưng, bác Trương này, - anh Phu nói - trước hết ta phải nắm xem trong vùng này
có bao nhiêu nhà giàu thuộc loại gian ác. Sinh hoạt nhà nó ra sao, có bao nhiêu
gia nhân, bao nhiêu lực điền trong nhà, có bao nhiêu chó dữ, tiền của nhà nó để
ở chỗ nào?
-
Việc này anh cứ để tôi! - Bác Trương xắn tay áo - Mấy lão chánh tổng vùng này,
nhà nó như thế nào, tôi nắm trong lòng bàn tay. Để tôi tìm vài thằng lực điền
làm nội ứng.
* *
*
Một
đêm không trăng sao, gió heo may và mưa lất phất. Mấy anh em ra đi, giắt bên
mình người trường côn, đoản côn, người dao, kiếm, tay thước. Họ lặng lẽ đi như
ngậm tăm, thoắt ẩn thoắt hiện trong đêm đen mịt mù... Băng qua mấy cánh đồng
tới một cái điếm canh đầu làng Nguyễn, ngó vào thấy bọn trương tuần đang nằm ngửa
cổ, há mồm ra ngáy gỗ, chẳng còn biết giời nam bể bắc là đâu. Hai chiếc tù và,
cái trên giường, cái lăn queo dưới đất. Chỉ có cái nùn rơm dựng ở khóe vách là
còn lập lòe sau cơn gió thổi. Mặc, cái bọn bắng nhắng này không thèm chấp.
Cổng
nhà Tổng Lươn đây rồi. Tên hắn là Phương nhưng hắn có khuôn mặt lưỡi cày, đôi
mắt ti hí như mắt lươn. Hắn thuộc loại ngũ đoản, ranh mãnh, sảo quyệt. Hắn từng
có nợ máu với nông dân. Cái cổng xây cao lừng lững, hai cánh cổng bằng gỗ lim
nặng trịch khép kín. Tầng trên gác là để bọn lực điền nằm canh đêm. Anh em bấm
nhau lặng lẽ men theo dãy tường rào cao tới hai mét. Đến điểm hẹn, bác Trương
dùng cây sào nhảy phốc lên mặt tường rồi chìa tay xuống lôi anh em lên. Luồn
qua dãy nhà bếp, chuồng trâu, kho thóc, qua nhà tiền tế rồi đến nhà chính Tổng
Lươn. Do có nội ứng nên bác Trương chỉ đẩy nhẹ, cánh cửa hé mở. Anh Phu bấm đèn
pin, Tổng Lươn giật mình chồm dậy.
-
Im lặng! Nếu hô hoán sẽ mất đầu. - Bác Trương vung cây kiếm sáng quắc.
Biết
là có bọn cướp lớn, Tổng Lươn bủn rủn ngồi sụp xuống đất lạy van.
-
Anh Phương, hãy nghe đây! - Anh Phu dõng dạc nói - Anh là người giàu có nhất
vùng này vì anh đã bóc lột vơ vét của cải nhân dân một cách tàn bạo. Nhân dân
cả vùng này oán thù anh đấy. Nay anh phải trả lại công bằng cho dân chúng. Trước
hết, anh phải nộp ngay tiền bạc ra đây, chúng tôi sẽ để cho anh yên. Nếu chống
lại, anh sẽ mất đầu.
Tổng
Lươn run run nhìn mấy ả vợ lẽ. Một mụ hiểu ý liền vào trong nhà bưng ra một cái
tráp đen rồi đặt lên bàn.
Nhìn
Tổng Lươn, anh Phu nói:
-
Anh Phương, tôi muốn để anh tự xử lấy việc này.
Tên
Chánh tổng đứng dậy run run mở tráp, lôi ra một tập giấy bạc Đông Dương, có dễ
đến vài trăm đồng. Rồi hắn dâng lên tay anh Phu như để tạ tội.
-
Anh hãy suy nghĩ kỹ đi. - Anh Phu nhìn xoáy vào mặt hắn - Từ nay hãy chấm dứt
mọi sự ức hiếp dân lành. Đừng để chúng tôi phải đến hỏi tội.
Thấy
có động trong nhà, bọn lực điền, gia nhân tay gậy, tay dao ập vào. Lập tức bác
Trương Kiện vùng tay thước ra đòn. Anh Phu thì múa lưỡng tiết côn làm vài thằng
biêu đầu. Bọn chúng nằm giạt mỗi đứa một xó. Thừa cơ, anh em vọt qua tường rồi
rút lui an toàn, để lại tiếng chó sủa ầm ĩ vang động cả một vùng.
Một
lần khác, anh em kéo vào một nhà giàu.
Nhưng rút kinh nghiệm ở gia đình Tổng Lươn, chúng bố trí lực lượng rất đông để
canh phòng. Hôm ấy, anh em vượt tường chẳng may vịn vào cành khô nên rơi xuống
đất. Chó nhà chủ cắn dữ dội. Bọn gia nhân nhất loạt tay gậy, tay dao chạy ra đuổi
đánh. Anh Phu và bác Trương cũng vung gậy, đánh côn cùng một số anh em hợp lực
chống cự. Lần ấy chỉ vơ được một cặp kính trắng. Anh Phu đưa cho anh Hạ Bá
Cang. Nhưng anh Cang dùng không hợp, đưa lại cho anh Lê Quang Đạo. Ngày đi học
mắt anh Đạo rất kém. Ngồi trong lớp trông xa không đọc được, mượn kính cận của
bạn đeo vào thì thấy chóng mặt. Giờ đeo cặp kính này vào đọc sách thấy rõ hẳn,
thì ra anh bị loạn thị. Anh Đạo giữ nó như vật báu trong người.
* *
*
Qua
một thời gian hoạt động, chị Tân đã trở thành cán bộ Xứ uỷ, chỉ đạo phong trào
ở các cơ sở. Chị thường thắng chiếc quần nái đen, vận chiếc áo cánh nâu non,
thắt giải lưng hoa lý, đầu đội chiếc nón lá trắng rồi khoác chiếc bị cói ra đi.
Trên
đường 12, chị hỏi thăm về làng Sưa. Sau khi bắt liên lạc với cán bộ địa phương,
anh em bố trí cho chị ở nhà anh Kiền, một gia đình nghèo, bố mẹ mất sớm. Năm anh
em sống nuôi nhau. Anh Kiền là con cả mới hai mươi tuổi. Nhà thì nửa tre nửa
gỗ, trống tuềnh, trống toàng, hễ mưa là dột, không có lấy một gian khô ráo. Vậy
mà anh em anh Kiền vẫn dốc một lòng theo cách mạng, nuôi nấng, bảo vệ cán bộ.
Ban ngày chị ẩn trên gác chuồng bò để đọc tài liệu, chuẩn bị kế hoạch công tác.
Tối đến đi vận động quần chúng hoặc khai hội. Mỗi lần chị đi, anh Kiền hoặc các
em lại đưa chị đến tận nơi. Các em coi chị như người chị cả trong nhà. Mọi việc
từ thu xếp nhà cửa đến công việc đồng áng, việc đoàn thể... mấy chị em đều bàn
bạc tỉ mỉ với nhau. Xa nhà lại được sống trong một gia đình mồ côi cha mẹ, tình
cảm của chị với các em, nhất là hai em gái nhỏ, có một sự thân thương khôn
xiết. Những lúc rảnh rỗi, chị khâu vá quần áo cho các em. Những ngày đi công
tác xa về muộn, xâm xẩm tối là các em lại ra cổng đón chị.
Ít
lâu sau, đề phòng sự theo dõi của mật thám, chị chuyển sang nhà bà cố Điền. Bà
sống một mình, nghèo lắm, chỉ có ba gian nhà tre dột nát cùng một cái chõng tre
nhọ nhem như cháy dở. Hai bà con trải lá chuối khô xuống đất nằm cho đỡ rét.
Chị coi bà cụ như mẹ đẻ, bà cụ quý chị như con gái. Có hôm đi công tác về
khuya, bà để phần cơm có bát canh rau tập tàng và mấy con cua rang trụi. Cơm
gạo đỏ khô lăn mà sao chị ăn thấy mát ruột,
ấm lòng. Sáng nào chị cũng dậy sớm, quét dọn sân nhà, gánh nước, tưới rau.
Những lúc rỗi, chị lại đi cấy đỡ, nhổ cỏ cho ruộng bà hoặc đi bắt cua, mò ốc để
tự túc món ăn. Nhìn bà cô quạnh, chị lại nhớ đến mẹ đẻ ở nhà mà ứa nước mắt.
Chị nóng lòng mong chóng đuổi hết Nhật, Tây để mau thoát khỏi cảnh cơ cực lầm
than.
Ở
Sưa nhưng chị Tân hay lui tới Lũ Phong, thôn Hội để vận động quần chúng. Có hôm
tối trời phải đi tắt đồi để giữ bí mật. Anh Đương dẫn chị đi. Không may vấp ngã,
cây nhọn sọc vào ống chân trái bị thương, chị ngã vật ra. Anh Đương đưa chị về
nhà. Các cụ chăm sóc, rửa ráy vết thương và đắp lá thuốc cho chị. Chị Tân thầm
nghĩ: Các cụ nghèo lắm mà sao lại thương cán bộ cách mạng đến thế? Thế mới biết
dân ta lầm than cực khổ nhưng đều một lòng, một dạ hướng về cách mạng. Nghĩ
vậy, chị thấy phấn chấn hẳn lên. Tuy vết thương vẫn còn đau, chân sưng tấy lên
nhưng chị cố gắng dậy để đi Yên Mô vì công việc rất quan trọng và khẩn cấp. Các
cụ thương níu giữ mãi nhưng chị không thể ở lại.
* *
*
Theo
yêu cầu của Xứ ủy, chị Tân trở về hoạt động trong Ban Cán sự tỉnh Hà Nam.
Một buổi sáng, chị dừng chân vào một quán
nhỏ, một cơ sở của chị nằm bên đường quốc lộ 1, cạnh ngôi chùa Lác trong Thanh
Liêm. Cô chủ quán độ mười tám đôi mươi, tên là Nụ, dáng người thấp đậm có đôi
mắt đen, linh lợi, đang ngồi lần giở cuốn truyện thơ Phan Trần, rồi vừa đọc,
vừa đánh vần. Thấy chị Tân đến đột ngột Nụ khẽ reo:
-
Ôi, chị đã về!
-
U đi đâu em? - Chị Tân hỏi.
-
Dạ! U em hôm nay đi chợ tỉnh.
Thấy
quán vắng, chị đặt chiếc bị cói xuống chõng rồi lấy từ trong bị ra, nào là
gương, lược, dầu cù là, cao con hổ, khăn bông, xà phòng bánh…Cuối cùng, chị lôi
từ dưới đáy bị lên một bọc giấy buộc chỉ gai đưa cho cô em.
-
"Hàng mới" của chị, em cất kỹ cho u.
Hôm nay, chị
Tân ngồi nán lại trò chuyện với Nụ. Nhìn khuôn mặt trái xoan đôi mắt đen hạt
nhãn của Nụ, chị bảo: "Em đã biết đọc sách rồi. Giỏi đấy! Hôm nào chị cho
em mấy bài thơ, em đọc. Đọc thuộc rồi, đem đọc lại cho nhiều chị em khác cùng
nghe". Nhìn cô em , chị Tân cười ý nhị rồi hỏi nhỏ Nụ:
-
Thế nào sư Thu lâu nay có hay ra đây không em?
Nụ
hơi đỏ mặt, nhìn bâng quơ phía chân trời: "Dạ, sư thầy dạo này đang đón
các sư về Hạ".
-
Ừ. Chị cũng biết sư Thu đang bận việc vào Hạ, chị không tiện vào. Hôm nay, chị
về dưới xuôi. Em nhớ lúc vắng, mang gói tài liệu vào đưa cho sư Thu.
Chiếc
bị hàng tạp hoá lại khoác lên vai, chị Tân ra đi. Trên đường chị nghĩ về sư Thu
và chùa Lác. Ấy là ngôi chùa nằm bên đường thiên lý Bắc - Nam, ở giữa đoạn cây
số 11 và 12 ngược chiều Phủ Lý. Theo truyền thuyết và Thần phả: Vào cuối đời
Trần có nàng công chúa Bạch Hoa đi lánh nạn về chùa Trinh Tiết rồi tu hành ở đây.
Một hôm du ngoạn qua đây, thấy phong cảnh hữu tình, nàng liền bỏ tiền cho dân
sở tại dựng một ngôi chùa đẹp để thần dân có chốn phụng thờ nơi cửa Phật. Ngôi
chùa xưa, phía trong có hậu cung sâu thẳm, phía ngoài là bảy gian nhà rộng,
quay hướng tây. Hai bên tả hữu có nhà Tổ. Phía nam có nhà giảng. Có nhà khách
cho sư các nơi về hành lễ.
Hàng
năm, chùa còn là nơi để sư các chùa về Hạ, học Kinh, thi cử. Bấy giờ trong làng
có ông Trương Ngọc Minh, trước là công chức Pháp về hưu được Chính phủ Nam
Triều phong "Hàn lâm thị giảng học sĩ", về làm Tiên chỉ làng. Ông
thành lập "Hội Chấn hưng Phật giáo", nhằm thu hút quần chúng vui thú
cảnh chùa chiền để quên nỗi đau mất nước. Nhưng các đảng viên cộng sản đã vận
động thành lập "Hội giảng Phật học", tập hợp được nhiều Phật tử. Vừa
giảng về tinh thần “từ - bi - hỷ - xả” của đạo Phật, truyền thống yêu nước của
các nhà sư qua các thời đại coi đạo Phật là Quốc giáo, vừa kết hợp tuyên truyền
lòng yêu nước, thương nòi cho Phật tử.
Trong
chùa, ngoài sư cụ trụ trì còn có anh Thu - Phạm Phú Thu, quê ở Chiềng Núi, nhà
nghèo xin ra ở chùa để cày bừa, gặt hái. Thấy anh Thu nhanh nhẹn, hoạt bát lại
cần cù, Sư cụ cho anh đi học chữ nho, dạy kinh Phật và hướng dẫn làm các khoa
lễ. Được mấy năm thì Sư cụ mất, anh Thu trở thành sư trụ trì, một mình vừa hành
đạo vừa chăm nom cày cấy. Mùa màng thóc thu về dùng vào việc tu sửa chùa chiền,
sửa lễ thờ Phật, một phần giúp kẻ cơ nhỡ, đói nghèo, một phần đỡ đần "Hội Chấn
hưng Phật giáo".
Thông
qua hoạt động, các đảng viên cộng sản đã tranh thủ truyền giáo tư tưởng yêu
nước, chống xâm lăng mà sư Thu là người chịu ảnh hưởng sâu sắc.
Nhân
một hôm sư Thu sang chùa Lường gặp ông Phó hội Nghị. Bên ấy sớm có phong trào
cách mạng, nhà sư muốn được biết cung cách hoạt động của họ như thế nào? Khi
vào trong chùa thì đã thấy các sư sãi cùng con nhang đệ tử đang ngồi quây quần
nghe một chị phụ nữ nói chuyện tình hình trong nước, tình hình thế giới, tội ác
của thực dân Pháp và nỗi thống khổ của đồng bào. Chị nói nhỏ nhẹ, say sưa, nghe
mà xúc động lắm! Sư Din ở chùa Lường cho biết tên chị là Tân, cán bộ Xứ uỷ. Sư
Thu rất mừng, có nhờ sư Din mời chị Tân về thăm chùa Lác.
Chỉ
sau mấy ngày theo sư Thu về chùa, thấy cảnh chùa rộng rãi, khang trang đi lại
tiện lợi, có điều kiện kinh tế lại có sư trụ trì tham gia hoạt động cách mạng,
chị Tân về báo cáo lại với anh Phu để xây dựng một cơ sở liên lạc của Xứ uỷ.
Vào
một hôm tối trời lại mưa gió, mải bận nhiều việc, sư Thu lên đóng cửa chùa hơi
muộn. Khi bước vào thấy một người đàn
ông nằm đắp chiếu ở xó bệ. Sư Thu hỏi: "Người ở đâu?". Người ấy trả
lời: "Tôi bị nhỡ độ đường, không có chỗ nghỉ, đành mạn phép nhà chùa, xin
Sư thầy vui lòng cho kẻ tha phương!". Thấy vậy, sư Thu liền xếp chỗ nằm
chu đáo cho ông khách không mời. Đêm ấy, sư Thu được biết người khách nọ là
đồng chí Xứ uỷ Phạm Văn Phu.
Hôm
sau, anh Phu cùng sư Thu vãn cảnh chùa rồi nhất trí để chị Tân về chùa Lác xây
dựng cơ sở, lấy nơi đó làm địa điểm liên lạc, đưa đón cán bộ Trung ương và Xứ
uỷ.
* *
*
Xế
chiều hôm ấy, chị Tân về làng Đoan Vỹ. Vừa tới đầu bến Khuốt, lỗi rẽ vào làng,
chị thấy một người đàn ông mặc áo dài thâm đang giương ô, chờ sang đò. Chị ý tứ
bước lên, liếc khéo rồi nói nhỏ với người ấy: "Anh!". Biết ý, anh Phu
cụp chiếc ô, cắp vào nách. Hai người cùng bước vào một quán nhỏ bên đường. Bà
chủ quán cũng là cơ sở, bà hạ cánh cửa liếp ngòai và mở bung cánh cửa sổ nhà
trong, lối nhìn ra bến đò, để hai người ngồi trao đổi công việc. Khi đã yên vị,
anh Phu bảo chị Tân:
-
Công việc đến đâu rồi? Em nói gọn một vài việc lớn thôi. Vì chúng ta ngồi đây
lâu không tiện.
-
Vâng! Em xin đề đạt một việc. Anh ạ, ở chùa Lác ta nên đặt một cơ sở in ấn tài
liệu của Xứ, vì nó nằm bên quốc lộ 1, rất thuận tiện cho việc phân phát tài
liệu toả đi các nơi, khắp Liên khu. Nếu được cấp trên chấp nhận, xin anh ưu
tiên cho chùa Lác một tấm đá in, một cái ru-lô và giấy, mực in tốt. Cũng xin
mời anh Bạch Thành Phong về viết chữ. Anh Phong có tài viết chữ ngược rất đẹp.
Anh xem thế nào?
Ngẫm
nghĩ một lát, anh Phu bảo:
-
Em nghĩ đúng. Để anh trao đổi với anh Lê Liêm. Em chủ động về chuẩn bị. Nên chú
ý địa điểm in ấn phải đặt nơi kín đáo, địch không để ý và phải có đường thoát
khi có động.
-
Vâng. À, còn chuyện này nữa, - chị Tân mỉm cười - cũng vui thôi anh ạ. Hình như
Thu và Nụ, hai đứa yêu nhau.
-
Tốt chứ sao em. Ta nên ủng hộ. Nhưng phải nhắc Thu luôn xác định mình là nhà tu
hành đang tham gia hoạt động cách mạng, phải giữ gìn niềm tin và khuyên hai đứa
phải kín đáo chờ nhau tới ngày cách mạng thành công.
Anh
Phu im lặng giây lát rồi anh thủ thỉ: "Trong cuộc cách mạng chống kẻ thù
chung, đầy gian lao, thử thách này, tình yêu chân chính sẽ động viên nhau vững
bước đi lên, em ạ!". Chị Tân không nói gì thêm, nhìn theo đôi chim đang
sải cánh bay về phía chân trời mà lòng thấy xao xuyến.
Con đò đã cập
bến. Anh Phu đứng dậy, nắm chặt tay chị Tân rồi nói nhỏ: "Thôi, anh
đi". Con đò vắng khách, từ từ quay mũi sang sông. Xa xa thấp thoáng mấy
cánh buồm nâu rẽ sóng xuôi về cuối trời…
* *
*
Đêm nay, dưới nhà bếp nhà ông Lý Tính, các chị
em đều hội về đủ mặt. Bên ngoài gió mùa đông bắc từng đợt ào về, chị Non kéo
cánh liếp che cửa. Không khí bên trong trở nên ấm cúng. Các chị ngồi chung
quanh chị Tân nghe kể chuyện sự tích Bà Trưng, Bà Triệu, về phụ nữ nước Nga
Xô-viết, về nỗi khổ của chị em mình dưới chế độ phong kiến, thực dân. Hôm nay,
chị dành nhiều thời gian để đọc những bài thơ cách mạng mà chị đã nhập tâm từ
ngày nào. Chị vừa đọc vừa giảng giải cho chị em hiểu từng ý nghĩa câu thơ. Đĩa
đèn dầu sở đặt trên cao đủ soi mờ tỏ từng khuôn mặt chị em đang say sưa lắng
nghe chị Tân đọc thơ. Rằng:
Ai kia vì
nước vì dân
Chúng ta
há bị chung thân má đào
Trong vòng
giáo mác gươm đao
Quản chi
thân thế ra vào tử sinh
Theo việc
nghĩa quên mình vì nước
Có chi mà
ngại bước đường xa
Chí tang
bồng ta tuyên thệ trước dân ta
Gương nữ
hiệp quyết xông pha trong Vũ trụ
Cùng chìm
nổi nhân quần hoà máu đỏ
Lênh đênh
thân thế bạn mày xanh
Trông chị
em chan chứa biết bao tình
Kẻ tù tội,
người lênh đênh trong bể sở.
Chính phủ
Pháp ta mau đánh đổ
Con nhà
Nam ta cố bước lên
Cùng năm
châu tay nắm chí bền
Sửa thế
đạo nhân quần phận sự
Quyết
chiến đấu theo gương cảm tử
Để nghìn
năm hậu thế soi chung
Nghe chị Tân
đọc xong bài thơ, chị em xôn xao bảo chị đọc lại lần nữa. Mấy chị mới bập bõm
đánh vần lên tiếng:
- Xin chị chép cho chúng em bằng thứ chữ thật rõ để khi đi cắt cỏ chúng
em đem theo học thuộc!
Chị Tân cười to:
- Tốt lắm!
Tôi sẽ chép thành mười bản để chị em ta truyền tay nhau đọc và đọc lại cho
nhiều chị em khác cùng nghe. Những bài thơ cách mạng thì nhiều lắm. Chúng ta sẽ
học dần.
Mờ sáng hôm
sau, theo kế hoạch phân công, mỗi chị cắp một chiếc thúng con, dưới đáy để tập
truyền đơn, bên trên bỏ nắm chè tươi rồi đậy chiếc vỉ buồm. Các chị len lỏi về
các chợ ven sông Đáy thuộc ba huyện Thanh Liêm, Gia Viễn, Ý Yên. Rồi tuỳ cơ mà
bỏ truyền đơn vào thúng bà con đi chợ.
* *
*
Sau buổi chia
tay với chị Tân ở bến đò Khuốt, anh Phu về Quỳnh Lưu, vùng núi bán sơn địa của
huyện Nho Quan, nơi có phong trào cách mạng sớm nhất, mạnh nhất của Ninh Bình.
Một sớm mùa
đông 1942, anh Lương Văn Đài đưa anh Phu đến nhà anh Phan Văn Phán. Nhìn trước
nhìn sau không thấy ai, anh Phán mời hai người vào trong nhà. Ngồi bên ấm nước,
anh Đài chỉ vào anh Phu giới thiệu: "Đây là anh Số. Anh này là Xứ, nhận
nhiệm vụ về đây xây dựng phong trào Ninh Bình". Nhìn ánh mắt của anh thấy
ngay sự thông minh, nhanh nhẹn và gần gũi. Cái bắt tay rất chặt của anh ngay từ
phút đầu làm anh Phán cảm thấy sẽ là một chỗ dựa đáng tin cậy.
Những ngày
nằm vùng, anh Số thường đi về nhà anh Phán. Anh như con cái trong nhà, hễ thấy
việc gì là lăn lưng ra làm, không nề hà việc nhà nông, chân lấm, tay bùn, cùng
thức khuya, dậy sớm với gia đình.
Sau khi chắp
mối lại liên lạc, chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương được xây dựng lại ở Quỳnh
Lưu. Các cơ sở cách mạng được củng cố và phát triển rộng rãi ở các làng, từ Lũ
Phong, Nội, Sải, Sưa, Đồi, đến Xuân Các, Hữu Thường... Lúc này, chi bộ Quỳnh
Lưu có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào cách mạng toàn tỉnh Ninh Bình.
Chi bộ bấy
giờ gồm các đồng chí Phan Văn Thành (Chánh Thành); Phan Long; Phan Lang (con
trai đồng chí Phan Văn Thành); Lương Xuân Đài, Vũ Thơ, Trương Văn Công, Lê
Đông, Phan Vinh…
Bộ phận lãnh
đạo ở nhà đồng chí Chánh Thành. Gọi là Chánh Thành vì ông Thành làm Chánh Hội,
gia đình khá giả, gia sản gồm ngôi nhà ba gian lợp ngói và ngôi nhà năm gian
lợp gianh, một chuồng trâu lợp cỏ, hai gian sàn, ba gian nhà bếp quay hướng tây
để xay lúa, giã gạo. Là học trò cụ tú Lương Văn Thăng, thân sinh ra anh Lương
Văn Tụy[9], được
thầy dìu dắt, ông Thành sớm có
tư tưởng yêu nước và giác ngộ cách
mạng. Ông hoạt động rất sớm, năm 1927 đã được kết nạp vào Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội và đến năm 1929 trở thành một trong ba đảng viên của chi bộ cộng
sản đầu tiên của Ninh Bình. Với cương vị Bí thư chi bộ Sưa, Sải (năm 1930) ông
đã tuyên truyền giác ngộ và kết nạp được nhiều đảng viên mới, tích cực xây dựng
và mở rộng phong trào ở nhiều địa phương trong tỉnh.
Năm 1939, ông
Thành bị tình nghi và bị quản thúc. Hàng tháng, ông phải đi bộ ba chục cây số
lên tỉnh trình diện. Thời gian này, tuy không trực tiếp lãnh đạo phong trào
nhưng ông vẫn tiếp tục góp ý kiến với các đồng chí trong chi bộ, bố trí cho hai
con (Phan Long, Phan Lang) đi bán thoát ly và giúp đỡ các đồng chí cấp trên về
hoạt động cách mạng.
Tại nhà đồng
chí Phan Lang đã phát hành các báo "Độc lập", "Hoa Lư", in
truyền đơn cách mạng, với nội dung: xây dựng đoàn thể Việt Minh, kêu gọi nhân
dân chống thuế, chống bắt phu, bắt lính, kêu gọi đoàn kết, vạch mặt phản động…
Báo in bằng thạch đá lấy từ chiến khu Ngọc Trạo về. Lúc này có thêm nhiều
truyền đơn từ Hà Nam (do “thượng cấp”) chuyển về nhà ông Chánh Thành. Tờ báo
"Cờ giải phóng" của đồng chí Hoàng Quốc Việt cũng được chuyển đến.
Đồng chí Số phân công anh em đi rải khắp nơi trong tỉnh.
Bấy giờ quỹ
Đảng chẳng có được bao nhiêu. Anh
em đi hoạt động chủ yếu dựa vào các
gia đình cơ sở. Đồng chí Số lấy làm trăn trở, đành đến gõ cửa những nhà khá giả
trong vùng để quyên góp tiền ủng hộ cách mạng. Ở làng Sưa có ông Lương Văn Lợi
tham gia cách mạng trước năm 1940, bị bắt, tra khảo, ngồi tù. Sau được thả
nhưng ông ta mất tinh thần, về nhà làm kinh tế. Ông bỏ tiền ra mua một đàn bò
cho đồng bào Mường nuôi rẽ. Một thời gian, đàn bò sinh sản khá nhiều, lại có
ruộng nương dăm mẫu cấy cày. Ông Lợi lại có con trai Lương Văn Tài là đảng
viên, đội trưởng tự vệ ở Làng Sưa. Anh Số đã vận động ông quyên góp quỹ cho
Đảng. Ông vui lòng nhận lời: "Thú thật với các ngài, tôi rất rát đòn. Nên
bây giờ về chỉ tăng gia cấy cày. Tôi xin ủng hộ cách mạng bằng tiền bạc
vậy". Ông coi anh Số là người thân tín, tin cậy nhất, mỗi khi có dư dả đồng
tiền, ông lại đem gửi anh ủng hộ quỹ.
Một sớm, Vũ
Thơ đến gia đình cụ Chánh Thành, tìm gặp anh Phan Vân. Vừa vào cổng đã gặp ngay
một người đội nón mê đang quét sân bằng cái chổi lá cọ, mỗi nhát chổi đưa đi
đều đều, nghe soàn soạt, nghĩ là lực điền nhà ông Chánh Thành, Vũ Thơ hỏi thăm
Phan Vân có nhà hay không? Người kia ngẩng đầu lên, thì ra là anh Số. Quét xong
chỗ rác, anh dựng chổi vào góc nhà rồi anh em tay bắt mặt mừng. Anh kéo Vũ Thơ
cùng ngồi xuống vỉa hè hỏi thăm:
- Có việc gì
mà đến sớm?
Thơ nói:
- Vì đã hẹn với anh Vân, đến trả cuốn
sách "Phép biện chứng" tôi vừa chép.
Anh Số hỏi ngay:
- Tình hình
phong trào trong đồn điền dạo này trời trở lạnh, anh em phu đi sớm về tối bị
rét, anh em có kêu ca gì không?
Vũ Thơ nói:
- Đời sống
của anh em công nhân rất cơ cực. Sáng phải dậy thật sớm vì nhà cách đồn điền ba
cây số. Phải làm việc quần quật tới tối mịt, không rõ mặt người mới được nghỉ.
Lại mò mẫm trong đêm tối trở về nhà. Buổi trưa phải ngồi giữa hai luống mía
tranh thủ ăn trưa, ăn xong dốc thuổng uống nước (thuổng là một ống cây bương
đựng nước). Uống xong là vào làm việc ngay. Vì dịp này đang mùa chặt mía, kéo
mật... Tôi trình bày với anh xin tổ chức cuộc đấu tranh, đòi chủ cho công nhân
bã mía để làm đuốc soi đường về nhà.
Anh Số nghe
rất chăm chú, khêu gợi cách trình bày và rất ủng hộ chủ trương đấu tranh. Anh Số
hỏi tiếp:
- Vậy những
cốt cán của phong trào, ý định, khẩu hiệu và phương lãnh đạo đấu tranh như thế
nào?
Vũ Thơ liền
trả lời một mạch:
- Xin thưa với
anh: Về phương pháp lãnh đạo là dựa vào các đầu phu lập ra ban đấu tranh để vận
động, tuyên truyền trong công nhân. Anh em nòng cốt cùng đi, cùng về với công
nhân; tranh thủ những lúc rét mướt, tối trời, anh chị em bị ngã vì trơn trượt,
mà gợi ý anh em đấu tranh. Hàng ngày anh em nòng cốt phản ảnh với tôi tình hình
dư luận trong công nhân. Cũng có tâm lý sợ chủ cúp lương, đuổi việc mà không
dám đấu tranh. Tôi đã gặp gỡ giải thích, cho đến khi đa số anh em công nhân tự
giải quyết được những băn khoăn và quyết tâm đấu tranh. Mặt khác, vì là thư ký,
tôi nhất trí với phương án đấu tranh này.
Đúng vào dịp
thời tiết xấu, mưa bụi, gió may kéo dài. Chiều hôm đó, đợi cho trời tối mịt,
tất cả phu đồn điền tập trung, kéo lên sân chủ. Một đại diện xin phép chủ đặt
vấn đề: "Dạo này trời mưa dầm, rét buốt. Đường chúng tôi đi về lại là
đường rừng, đường đồi, trơn trượt, đi làm về muộn, trời tối om, không biết lối
nào mà đi, nhiều người bị ngã bẩn hết quần áo, thậm chí rách cả quần. Thật khổ
sở. Vậy xin chủ cho chúng tôi mỗi người một nắm bã mía làm đuốc soi đường".
Nhưng ông ta cho rằng: "Được đằng chân sẽ lân hàng đầu". Như những
lần trước, đòi tăng lương mỗi lần chỉ tăng thêm có hai xu, ba xu, mà lương đang
từ tám xu đã tăng lên hai mươi tám xu một ngày. Mặt khác, bã mía cũng là nhiên
liệu để nấu đường, nếu cho bã mía thì phải mua củi bổ sung.
Vậy tối
hôm sau, anh em công nhân lại kéo lên
sân chủ. Anh em tuyên bố: Nếu chủ không giải quyết thì nhân trời mưa rét, tối
tăm thế này, xin chủ cho nghỉ mấy ngày, chờ trời tạnh hẵng hay.
Tối hôm đó,
chủ họp vội với các cai để bàn. Họ đều nhất trí không cho công nhân bã mía. Vậy
là phát lệnh bãi công trong anh em. Sáng hôm sau cũng vẫn mưa bụi, gió may, anh
em công nhân các làng đều không đi làm, nhưng ai cũng tranh thủ ra làm ruộng
nhà. Thấy căng, sau hai ngày, chủ đồn điền buộc phải chấp nhận yêu cầu chính
đáng của công nhân. Thế là cuộc đấu tranh đã đạt được, kỳ này ngoài việc có bã
mía làm đuốc đi đường, còn giải quyết được chất đốt cho gia đình. Ai cũng phấn
khởi.
Khi vừa nghe
Vũ Thơ báo cáo xong, anh Số rất lấy làm vui. Rút kinh nghiệm cho cuộc đấu tranh
sau, anh bảo: "Muốn nổ ra đấu tranh phải nắm vững dư luận và biết rõ nhu
cầu bức thiết của công nhân. Lãnh đạo phải theo sát, động viên kịp thời và cũng
phải xem xét yêu cầu mình đặt ra cao quá hay thấp quá. Đặc biệt là phải chọn
thời cơ nổ ra cho thích hợp".
Tuần sau, Vũ
Thơ trở về họp chi bộ, anh Số đã chuyển sang Lũ Phong để huấn luyện quân sự cho
đội tự vệ.
Trời chạng
vạng, nhìn dưới nhà ngang nhà ông Tuệ mới thấy có anh Vạc (Vũ Nhất), anh Lương
Nhân, anh Trương Đình Dần. Còn anh Số thì đang khệ nệ bê nồi cám bèo đi về phía
chuồng lợn, đổ cho lợn ăn. Thấy có bóng người đi vào, nhận ra Thơ, anh bảo:
"Sao mày đến sớm thế? Tao đang bận, họp muộn một tý cho nó an toàn".
Chín giờ tối,
cuộc họp bắt đầu. Nội dung bàn về mở lớp huấn luyện quân sự, anh Số nói:
"Đã có tự vệ phải có cán bộ quân sự để huấn luyện cho anh em. Văn phải ôn,
võ phải luyện. Không luyện tập thì không thể thành đội tự vệ được. Vậy hội nghị
hôm nay chủ yếu là bàn việc mở lớp huấn luyện, mà phải mở vào đúng dịp Tết
Nguyên đán, nhân lúc bà con nghỉ việc đồng áng. Trong lớp huấn luyện này, các
tỉnh trong Liên khu đều cử người về học. Tất cả lớp học khoảng độ ba chục. Vậy
đêm nay, các đồng chí ta cùng bàn một số việc, như địa điểm huấn luyện, nơi ăn
chốn ở, vũ khí tự tạo… Nhất nhất đều phải chuẩn bị cho kỹ càng, phân công mỗi
đồng chí một vài việc cụ thể”.
Dạo này bọn
mật thám hay đi dò đêm về các làng, rồi bất thình lình chộp bắt cán bộ. Đêm ấy
họp xong, mấy anh em cắp chiếc chiếu xuống con đò dọc nhà ông Tuễnh ở bến Đang,
chèo về giữa cánh đồng năn, nằm gác chân lên nhau, nói chuyện.
Anh Số nằm kể
chuyện Phú Riềng. Anh bảo: "Cái hồi ấy, tao làm có một mình chứ làm gì đã
có chi bộ đâu. Bây giờ tao thấy thằng Thơ làm được như vậy, tao rất tin
tưởng". Rồi anh bắt đầu vào chuyện… Hình ảnh đồn điền cao su Phú Riềng lần
lượt hiện về như một địa ngục trần gian...
Qua nhiều đêm
trò chuyện tâm tình, anh em được biết những năm 1926 - 1930, anh từng lăn lộn
trong phong trào công nhân cao su Nam Bộ và là Bí thư chi bộ lãnh đạo cuộc đấu
tranh của năm nghìn phu cao su giành thắng lợi. Giờ đây đang theo sát tình hình
anh em công nhân đồn điền Chu Văn Luận ở Quỳnh Lưu, anh đã đưa ra những kinh
nghiệm đấu tranh rất sát thực.
Đêm sau, mấy
anh em đi hoạt động dưới cơ sở về, lại bồng bềnh trên con đò dọc, nằm giữa vùng
trời nước trăng sao mà tán chuyện. Lần này thì anh Số kể một vài mẩu chuyện vui
ở đồn điền Phú Riềng. Bằng giọng đều đều, anh vào chuyện: “Sang đến năm 1929, Công
ty Mi-sơ-lanh lại thay chủ nhất và một số xu-vây-dăng. Thằng Va-sê đi, Su-ma-nhắc
đến. Tên này là quan ba không quân, y mang cả vợ đầm về Phú Riềng. Su-ma-nhắc
khoảng ba mươi tuổi. Nó vốn là tư sản chính nòi có rất nhiều cổ phần trong Công
ty Mi-sơ-lanh.
Sang đến thời
kỳ này, rừng cao su Phú Riềng đã có những cây non ba tuổi sắp đến lứa trích mủ.
Hãng Mi-sơ-lanh thấy cần phải cử những người tin cậy, có thẩm quyền của hãng
đến coi sóc công việc ở Phú Riềng. Su-ma-nhắc đáp ứng được những điều kiện
trên. Y cao lớn, nom dáng dấp đẹp lắm, lúc nào cũng đeo kính trắng, gọng vàng,
nói năng ngọt xớt.
Suốt năm
1929, thằng Su-ma-nhắc chỉ trông coi ở Phú Riềng một nửa, còn sáu tháng, y dẫn
vợ đi chơi Sài Gòn, Đà Lạt, Ô Cấp. Thằng này dâm đãng đến mức thú vật. Trong
boong-ga-lô, lúc nào cũng có dăm bảy cô hầu hạ. Nó kén toàn những người trẻ
khoẻ để nó thoả mãn thú tính dục vọng. Chồng ăn chả, vợ ăn nem. Vợ hắn độ hai mươi
mốt, hai mươi hai tuổi, đẹp quái ác mà dâm ô cũng khủng khiếp. Con này có thằng
nhân tình chính là thằng Pa-ri, Chủ nhì. Cái hồi ấy, tao làm y tá, thằng
Su-ma-nhắc đưa tao lên tiêm cho con vợ nó hàng ngày. Cái con đầm này vốn phóng
đãng nó “gạ” tao. Chúng mày biết không, tao yêu cầu nó bắt thằng chồng không
được cúp phạt lương, không đánh đập dã man anh em công nhân. Tao biết nó ưng
tao. Nó nhận và hứa sẽ bảo thằng chồng. Sau, đã thực hiện được một số việc. Nói
thực, tao phải tranh thủ con mụ đầm này để giảm bớt sự đau khổ cho anh chị em
công nhân”.
- Vậy cái
"khoản kia" của nó có khác ta không, hở anh? - Một cậu hơi tếu hỏi.
- Thằng này
bậy!
Biết anh Số
hay tếu táo cho vui, Vũ Thơ hỏi:
- Vì sao anh
lấy tên là Số mà không chọn tên khác cho hay? Vì số cán bộ chúng em ở Ninh Bình
thì Phan Lang lấy tên là Phi Vân, Phan Văn Thiện là Long, Phan Văn Vạc là Lý,
còn Vũ Thơ là Kỳ Châu… Các tên này nghe kêu kêu và hay hay.
Anh Số cười,
trả lời:
- Tên cha mẹ
đặt cho mình là Phạm Văn Phu, về đây mới gọi là Số. Hiện nay, bọn Pháp đang
khủng bố gay gắt, phong trào liên tục bị vỡ. Anh em mình không biết có tránh
được không. Chia tay nhau mà không dám nói ra rằng mai đây liệu có còn nhìn
thấy mặt nhau nữa không? Nên mình chọn tên là Số. Với lại các cụ xưa đã dạy
"Sống chết do số". "Số hồ thiên mệnh" mà! Nên chả sợ gì, cứ
tích cực mà lăn lộn với phong trào.
Mấy anh em
nghe anh nói đều cười vui. Thực ra anh là một người hoạt động cách mạng đầy
kinh nghiệm. Anh em tin tưởng anh làm việc có phương pháp, tôn trọng nguyên tắc
hoạt động bí mật nên rất tự tin vào bản thân mình và nói vậy cho vui.
Trở lại nhiệm
vụ thực tại, với kinh nghiệm hoạt động bí mật, anh truyền lại cho anh em cách
nằm ngủ ban đêm. Anh bảo: “Chính lúc nhá nhem tối và mờ sáng là thời gian bọn
mật thám hay lùng bắt cán bộ. Vậy nên phải dậy sớm để nắm bắt tình hình xung
quanh và đề phòng địch bao vậy bất ngờ. Trong đêm, kẻ địch mò vào nhà bắt cán
bộ, hay nghe tiếng ngáy, tiếng thở mà chộp vào ngực. Vậy nên nằm dở đầu đuôi.
Hễ thấy động thì anh nằm cạnh dùng chân đá ngay vào mặt nó, giải thoát cho đồng
chí của mình và cùng nhau chạy trốn”.
* *
*
Hôm sau, giao
thông đưa giấy triệu tập đi các tỉnh.
Địa điểm lớp
huấn luyện quân sự được đặt ở trại khai hoang thôn Lũ Phong. Dùng nhà cụ Cố
Đoang, nhà ông Quỹ Tậu làm nơi ăn nghỉ. Ngày 27 Tết âm lịch, cán bộ của bốn tỉnh
đã có mặt đầy đủ. Ngoài Hà Nam có chị Tân đại diện.
Thấy anh Phu
mạnh khoẻ, đang điều hành công việc một cách nhanh gọn, chị Tân mừng lắm. Chị
muốn gặp anh để nói chuyện nhiều nhưng anh bận, nên chưa tiện.
Chiều
hôm ấy, hai người cùng ngồi trên một mỏm
đá bên bờ suối ven đồi. Qua câu chuyện của chị Tân, anh Bình tỏ ra rất phấn
khởi về tình hình phong trào Hà Nam. Anh bảo chị:
- Ở trong này, anh vẫn nhận được đầy đủ tài
liệu ở ngoài ấy gửi vào. Giấy tốt, in rõ lắm. Khá lắm!
- Cũng rất
may, anh ạ. - Chị Tân nói - Kể từ khi Nụ chạy được nguồn giấy, cơ sở in ở chùa
Lác chuyển sang in ly-tô.
- Nụ chạy
bằng cách nào mà giỏi vậy? - Anh Bình hỏi.
- Nụ giả làm
người đi buôn chè, lên Hà Nội mua được giấy tốt, đem xếp dưới đáy giỏ, phủ chè
bồm lên trên rồi tung tẩy khoác đi. Cô ả cũng mồm mép lắm nên mọi việc đều suôn
sẻ. Một hôm, anh Lê Liêm về kiểm tra có nói: "Tất cả truyền đơn in ở chùa
Lác, đều phải dành phát tán trong Thành Nam, vì giấy tốt, chữ đẹp. Có như vậy
thì trong Thành họ mới đọc. Mặt khác để bọn mật thám phải tốn công truy tìm, vì
chúng sẽ nghi ngờ, tài liệu này chỉ ở trong Thành mới có thể in được".
- Vậy tiền
chi cho việc in ấn thế nào?
- Như anh đã
biết. Quỹ của mình quá nghèo, mỗi lần in tài liệu "thượng cấp" chỉ
duyệt có năm đồng bạc Đông Dương nhưng thực tế phải chi gấp đôi. Khoản chi này
do sư Thu trích từ quỹ từ thiện của nhà chùa, tiền bán thóc do nhà sư cày cấy
ruộng chùa mà có. Sư Thu còn chu cấp gạo tiền cho tất cả những đồng chí mình
qua lại hoạt động.
- Khá lắm.
Mối tình Thu và Nụ thế nào, em ?
- Nụ đã trở
thành cô gái rắn rỏi và can đảm rồi anh ạ. Chính sư Thu đã thử thách Nụ một số
việc. Một lần, Thu giao cho Nụ lên chùa Mã Não tận trên Kim Bảng để lấy tài
liệu đem về chùa Lường, Thanh Liêm. Nụ kể: "Hôm ấy nhận tài liệu xong thì
trời chạng vạng tối. Làm thế nào bây giờ? Đường về còn hơn hai mươi cây số! Nếu
ở lại thì sáng mai không có tài liệu cho phiên họp kín trong chùa. Đã hứa với
sư Thu rồi”. Thế là Nụ xăm xăm bước đi ngay trong đêm. Đêm trở giời không trăng
sao. Nụ bảo: Hễ thấy có bóng đen phía trước, em lại nấp vào gò bụi, chờ cho họ
khuất xa rồi mới tiếp tục đi. Đáng sợ nhất là có một con đường đi qua một nghĩa
địa mà mới sáng qua đấy Nụ đã thấy có nhiều ngôi mả mới. Có vài ngôi khói hương
vẫn còn đang nghi ngút. Bây giờ cái nghĩa địa kia lại hiện ra trước mắt Nụ!?
Đêm khuya,
bốn bề vắng lặng chỉ còn âm u gió thổi và tiếng dế nỉ non như tiếng khóc của
những người dưới mộ. Tự nhiên Nụ thấy lạnh toát người, toan ngồi xuống để trấn
tĩnh thì từ phía những ngôi mộ kia bỗng vụt lên vài đốm sáng xanh to như chiếc
bóng đèn rồi bồng bềnh bay trong đêm. Thôi, đích là ma rồi, trống ngực đánh như
trống làng, chân tay bủn rủn. Nụ ngồi thụp xuống khẽ kêu: Mẹ ơi! mà miệng đắng
ngắt. Lúc này Nụ sực nhớ câu chuyện "Thần trùng" của lão Thực, gia
nhân nhà cụ Chánh thôn Lác kể rằng: Năm ấy, làng có người chết v×
sÐt ®¸nh. Gia đình nạn
nhân có thuê lão canh mả mấy đêm, vì sợ kẻ trộm
đào lên chặt lấy đầu bán cho kẻ cướp. Đêm ấy, lão Thực cắp manh chiếu ra
ngồi dưới gốc cây ngoài nghĩa địa. Mới sang canh hai, lão đã nhìn thấy một đốm
lửa dài như cái chày, đỏ lòm từ lưng chừng giời giáng xuống ngôi mộ. Lão nghe
thấy tiếng người dưới mộ kêu đánh "hự" một cái. Lập tức mấy đốm lửa
xanh lét từ nấm mộ bay vụt lên. Lão bảo "trùng" nhà này nặng lắm. Ai
yếu bóng vía qua đây là nó bắt thế mạng. Nụ nghe nửa tín, nửa ngờ. Nhưng đêm
nay thì rõ ràng Nụ nhìn thấy ma thật. Đi được quá nửa đường rồi, biết vào đâu?
Vả lại tài liệu mật của Đảng đang giắt ở trong người. Nghĩ tới lời chị Tân:
"Đường cách mạng là gian lao lắm. Nhiều thử thách lắm. Em phải cam đảm
lên, mới vượt qua được". Nụ nghĩ về lời hẹn ước cùng anh Thu: "Dù
sống chết chúng mình không đánh mất niềm tin với Đảng với cách mạng". Và
sáng mai đây thôi, hội nghị quan trọng ở chùa Lường đang chờ tài liệu ở Nụ mang
về. Nhìn lên bầu trời, mấy chấm sáng xanh bay lang thang đã tắt, chỉ còn màn
trời đêm tĩnh lặng. Nụ đứng dậy xăm xăm bước đi giữa đất trời tịch mịch.
Tiếng gà gáy
sang canh tư, Nụ qua một cái gò, bỗng thấy mấy bóng đen lố nhố, tiếng đồ đồng
loảng xoảng. Nụ ngồi thụp xuống nghe ngóng, thì ra bọn kẻ trộm đang chia của
lấy được từ nhà giàu nào trong làng. Nụ xuống cánh đồng nấp sau một mô đất, lát
sau bọn chúng gánh đồ đi khỏi, Nụ phủi áo lên đường. Qua đò Kiện thì trời vừa
rạng sáng. Tại chùa Lường, anh Lê Liêm nghe Nụ kể lại chuyện gặp ma. Anh cười,
giảng giải cho Nụ rằng: "Trong xương người chết nằm dưới mộ nó có một chất
khí gọi là phốt-pho, chất khí này nhẹ lắm, nhẹ hơn không khí gặp khi thời tiết
xấu nó bay thoát lên, gặp không khí gọi là ôxy, lập tức nó bùng cháy thành ngọn
lửa xanh bay lơ lửng mà ta thường gọi là "ma trơi" đó thôi. Chứ làm
gì có ma. Hỡi cô em gái thân yêu!". Nụ cười như trút hẳn nỗi ám ảnh ma quỷ.
Nghe xong anh
Phu đứng lên, nhìn về phía dãy núi tai mèo xa xăm. Bên kia dãy núi ấy là Hà Nam.
Anh bảo chị Tân:
-
Nụ đã trưởng thành rồi. Thu đã là chỗ dựa tin cậy.
Khi em về Hà Nam
cho anh gửi lời khen ngợi đôi bạn, nhắc Thu và Nụ hãy chờ nhau ngày chiến
thắng.
Hôm 30 Tết,
anh chị em đang chuẩn bị ra bãi tập quân sự thì tờ mờ sáng, một tự về chạy đến
báo, đêm qua bọn mật thám ập về Lũ Phong bắt đi hai người. Được tin, anh Phu
lệnh cho học viên chuyển gấp vào địa điểm dự phòng sâu trong rừng. Tự vệ sẽ
chuyển lương thực vào sau.
Địa điểm mới
hiểm trở, lối vào độc đạo, trên là vách đá tai mèo, dưới là đầm lầy um tùm lau sậy. Ai nhỡ sa chân tụt xuống
sẽ sụt bùn đến tận thắt lưng. Bên trong là rừng cây báng dưới là suối nước độc.
Dân đói khát ăn bột búng báng, uống nước suối, bụng sẽ trương lên thành bụng
báng nên gọi là "Đồng Báng". Ở đây vẫn có năm gia đình vì không có
tiền nộp sưu thuế bị địa chủ cướp đất, cướp nhà đành rủ nhau vào khai hoang
sinh sống. Bây giờ, gia đình họ là nơi ăn ở cho lớp học. Anh chị em dưới đồng
bằng Nam Định, Thái Bình, Hà Nam lần đầu tiên lên đây với rừng đã gặp ngay thử
thách leo núi đá tai mèo nhọn sắc.
Lớp học được
phân làm ba tiểu đội. Anh Vũ Nhất, anh Phan Long, chị Hà Thị Quế được chỉ định
làm tiểu đội trưởng. Anh Phu trực tiếp huấn luyện toàn khoá học. Lớp tập trung
sinh hoạt theo lối quân sự. Ra vào phải báo cáo. Ai có việc rời khỏi trại phải
được trực nhật cho phép. Các tiểu đội dưới sự chỉ huy của anh Phu. Ban ngày ra
bãi tập, tập những động tác cơ bản như: lăn lê, bò toài, đi đều, hành quân, cắm
trại... Học các chiến thuật tập kích, phục kích, đánh cướp trại... Cả lớp đồng
loạt mặc nâu sồng. Ngang lưng thắt dây bao vải, quần buộc túm ống bằng dây
chuối, vai đeo khẩu súng bằng thứ gỗ tốt, cầm chắc nịch như súng thật. Mỗi khi
tập đi đều, súng xốc lên vai, tăm tắp thẳng hàng, ai nấy nhìn thẳng phía trước,
miệng hô “một hai, một hai”...
Anh Phạm Văn
Phu đứng, tay chống nạnh, nhìn theo các học viên sát vai nhau bước đều theo
nhịp câu hát.
Nào ta đi hồng binh…
Tiếng
hát của đoàn quân áo vải vang dậy cả núi rừng. Họ là những hạt giống đỏ của
giai cấp công nông đã vùng lên từ bần hàn, nô lệ.
Nào anh em
nghèo đâu
Liều thân
cho đời sống
Đừng cho quân thù thoát…
Anh chị em
hăng hái vững bước đi lên với niềm tin sắt đá vào ngày mai chiến thắng.
Nhà ta không cần lo…
Cho thế giới đại đồng…
Đêm ba mươi TÕt, đốt lửa trại đón giao thừa. Củi
rừng chất đống. Mặc cho gió bấc hun hút tràn về thung lũng đem cái rét tê cóng,
anh chị em ngồi vây quanh đống lửa to giữa sân nhà ông Tòng. Ngọn lửa đỏ bốc
cao, bập bùng soi tỏ từng khuôn mặt hồng hào các chiến sĩ. Ai nấy đều có cái
cảm giác đầm ấm, xum vầy mới lạ.
Bài
"Công nông ca" đồng thanh cất lên:
Bớ công nông, phất cờ lên
Đồng tâm góp sức giết loài sài lang
Theo ngọn cờ Mác Lê-nin
Anh em nào quyết ra tay…
Tiếng hát âm
vang bừng lên ấm áp. Đêm nay vui liên hoan, ai biết bài nào thì hát lên góp
vui, chị Tân hát một bài ca cách mạng theo điệu cô đầu.
Rồi lần lượt
chị Hà Thị Quế hát bài "Trưng Trắc khuyên Trưng Nhị", anh Phan Lang
hát "Nơi ải biên cương", anh Vũ Thơ hát bài "Phi Khanh dặn
Nguyễn Trãi", tiếp đến các làn điệu
dân ca cò lả, sa mạc, trống quân... xen kẽ các tiết mục của cánh tự vệ địa
phương Quỳnh Lưu. Đêm liên hoan văn nghệ đón giao thừa vang động cả góc rừng.
Sớm hôm sau,
mồng Một tết, tất cả trung đội ra bãi tập. Tối về lại tập trung vào cả một nhà
để sinh hoạt chính trị, học lý thuyết du kích chiến tranh, du kích chiến, vận
động chiến và "Mười chính sách Việt Minh".
Đêm khuya,
nằm trong chiếc ổ lót bằng cỏ khô, một mùi thơm dịu êm của cây cỏ núi rừng, anh
Phạm Văn Phu thấy lòng khoan khoái dễ chịu. Anh nằm hồi tưởng lại từ những đêm
trăng luyện võ nghệ, côn quyền cùng mấy bạn ý hợp tâm đầu ở Trường dòng La-tinh
Hoàng Nguyên, cho đến khi vào miền đất đỏ Phú Riềng Nam Bộ cùng anh em phu phen
thành lập đội "Xích vệ đỏ", lao vào thực tiễn tranh đấu. Rồi những
năm tháng lao tù ngoài Côn Đảo, anh đã tiếp thu được những kiến thức quân sự,
chính trị thật bài bản của những bạn tù mà chính họ là những thầy giáo có trình
độ học vấn cao, cùng nhau biến nhà tù thành "Trường đại học cách
mạng", rồi những ngày theo học lớp quân sự ở Bắc Giang. Hôm nay, anh đem
những kiến thức đã học được ở cả một chặng đường tranh đấu truyền lại cho đội
quân vũ trang đầu tiên của cách mạng ở nơi rừng sâu này. Và anh quán triệt cho
họ rằng chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới giành được chính quyền. Anh tin tưởng
mai đây, đội quân này sẽ được nhân lên trùng điệp, sẽ trở thành những đội quân
cách mạng. Nó sẽ dâng lên thành làn sóng căm thù, nhấn chìm bọn đế quốc... Anh
nghĩ về nhân dân Quỳnh Lưu, những người nông dân nghèo lam lũ nhưng trẻ già đều
dốc một lòng đi theo Đảng. Anh đã cùng họ những tháng ngày rau cháo có nhau.
Cuộc chiến sẽ khốc liệt bởi hai thằng giặc Nhật, Pháp này, nó tàn ác lắm. Nó sẽ
giết dân mình bằng cái đói, cái rét. Phải có thực mới vực được đạo, phải biết
thương lấy dân. Anh trở mình rồi chìm vào giấc ngủ…
Buổi chiều ngày kết thúc khoá học anh em vào
rừng đốn củi trả lại cho mấy gia đình. Nhóm chị em rủ nhau men theo bìa rừng.
Đi được một đoạn bỗng thấy một con nai đang nằm bên bờ suối. Chị em đứng sững
lại, chị Hoàng Thu bình tĩnh cầm một cái gậy chọc vào con vật ấy. Nó vẫn nằm
nguyên. Chị bước lại gần thì ra nó bị con hổ cắn thủng bụng. Nó lần xuống suối
uống nước nhưng không đứng dậy được. Khốn nạn thân nó, đằng nào thì cũng chết.
Chị Thu gọi anh em đến khiêng về. Anh Phu bảo đem thui rồi xả thịt cho anh chị
em ăn. Còn phải giữ lấy bộ xương để nấu cao.
Chiều hôm ấy,
bữa liên hoan chia tay, có cả thịt nai rừng nướng thơm lừng trên than hồng, Một
bữa tiệc mà lần đầu tiên anh chị em mấy tỉnh dưới đồng bằng được thưởng thức.
Một kỷ niệm đáng nhớ.
Lớp học kết
thúc vào đúng dịp ngày lễ hội chùa Bái Đính. Nhân dân đi trảy hội khá đông, anh
Phan Lang có sáng kiến đề nghị tổ chức một buổi diễn thuyết công khai và anh
Phu làm diễn giả. Toàn thể đội tự vệ tham gia và huy động khá đông hội viên
Việt Minh. Mỗi người chuẩn bị sẵn một gói cát trộn ớt bột, thủ sẵn trong túi, nếu
kẻ địch vây bắt thì sẽ ném vào mặt chúng để diễn giả rút lui an toàn.
Sáng hôm đó,
anh Phu mặc áo lương, đội khăn xếp, trùm khăn đỏ, thắt lưng xanh, có tự vệ bí
mật đi bảo vệ. Lợi dụng lúc dân đi lễ đông, anh Phu bước lên một tảng đá lớn
ngay giữa lối lên chùa, giả vờ ngồi đồng. Tự vệ của ta bố trí sẵn các ngả. Khi
thấy "Ngài" phán truyền thì lập tức hô hào quần chúng đến lắng nghe.
Nhân dân đến
rất đông. Họ vây quanh "Đức Thánh". Ai nấy tỏ lòng thành kính, nghiêm
trang. Anh Phu dõng dạc y như "Đức Thánh" truyền:
Ta là Đinh Tiên Hoàng đế giáng trần! Hỡi hỡi, con con,
cháu cháu hãy nghe lời ta phán! Hiện nay nước nhà đang bị Tây, Nhật xâm chiếm.
Chúng đang làm khổ cả người sống và người chết. Oan hồn đang kêu la thảm thiết
lên đến chín tầng mây. Người trần và người âm cũng không còn sống được với
chúng nữa. Bây giờ chỉ còn một cách duy nhất là âm dương đôi ngả hãy đồng tâm
hiệp lực theo ngọn cờ đỏ sao vàng của Việt Minh mà đánh đuổi hết Tây, Nhật, mưu
độc lập cho dân Việt Nam, cho con con, cháu cháu.
Hỡi con cháu!
Thời cơ đã đến! Tây, Nhật
sẽ thua! Con cháu hãy mau mau đứng dậy, dựng cờ khởi nghĩa, rửa cho mau cái
nhục mất nước đã hàng trăm năm rồi.
Sau khi
"Thánh thăng" tự vệ bố trí cho "Ngài" biến nhanh ra khỏi
hội và cử anh em ở lại giải thích cho đồng bào hiểu chủ trương cứu nước của Mặt
trận Việt Minh. Ta lại bố trí cho chị em phụ nữ đi các chợ Rịa, chợ Quán, Sinh
Dược, Lạc Khoái, để tung tin, làm cho tin “Đức Thánh giáng trần” ấy lan sang cả
Hà Nam, Nam Định.
Sau buổi diễn
thuyết về, anh Phan Lang được cử đi học để bổ sung vào Xứ uỷ. Anh Phạm Văn Phu
trở lại làm việc với các cơ sở Đảng để lãnh đạo các thôn Sưa, Sải, Lũ Phong,
Lai Các, Xuân Quế... đi vào rừng vỡ đất hoang, trồng khoai sắn. Một hôm, anh
Phu khoác túi thuốc cùng bà con đi vỡ đất, tiện thể anh vào thăm bản Mường. Tới
đầu bản, anh thấy một cái lều nhỏ dựng tạm bợ bên bờ suối. Trong lán có tiếng
oe oe của trẻ sơ sinh. Thấy lạ, anh ngó vào thì có một bà già đang dùng cái cật
nứa định cắt cuống rốn cho đứa trẻ.
Anh bước vội
vào can ngăn. Sẵn đồ nghề mang theo, anh liền xắn tay áo đem dao kéo, bông
băng, thao tác dứt khoát, nhanh nhẹn, tách đứa bé ra khỏi mẹ. Anh tắm rửa lau
chùi cho cháu, đặt nó lên một tấm vải khô, quấn gọn thằng bé rồi đặt nằm ngay
ngắn trên giường. Nó nằm im thít rồi ngủ. Quay ra anh giải thích cho gia chủ và
bà mụ: "Từ nay không được làm như thế, làm như vậy thì đứa bé sẽ bị nhiễm
trùng rốn mà sinh ra nhiều bệnh, sẽ dẫn đến tử vong". Người nhà đứa trẻ
chỉ biết cảm ơn rối rít, còn bà mụ thì ngồi im lặng mắt nhìn đi tận đâu. Từ
đấy, anh Phu được nhân dân cả vùng mời đi khám bệnh bốc thuốc, tiêm thuốc và đỡ đẻ. Bà con còn gọi anh bằng các
tên trìu mến "thầy Minh Khói, thầy Ký tiêm". Anh thấy yên tâm vì được
sống trong tình thương yêu bao bọc của nhân dân.
Vùng công
giáo Châu Sơn, nơi mà ngót hai mươi năm trước, anh từng sống những ngày khốn
khổ trong cái nhà dòng ấy. Những người dân ở đây bây giờ chẳng còn ai nhớ ra
anh. Nhưng họ đều nhận ra những lời giảng giải, tuyên truyền của anh cán bộ
Việt Minh chả khác gì những điều đã dạy trong Kinh Thánh. Cũng là thiện ác,
cũng là yêu nước, thương dân cũng là công bằng, bác ái. Vậy là giáo dân cả vùng
càng thêm tin yêu cách mạng. Họ đã rùng rùng kéo nhau xuống Sưa, Sải, Lũ
Phong... hợp thành đoàn quân để biểu tình chống sưu thuế.
* *
*
Sau lớp huấn
luyện quân sự ở Quỳnh Lưu, chị Tân trở lại Hà Nam. Lúc này chị được cử vào Ban
Cán sự tỉnh, trực tiếp chỉ đạo phong trào ba huyện Thanh Liêm, Ý Yên, Bình Lục.
Nụ vẫn tiếp tục lên Hà Nội mua giấy tốt, mực in và còn thêm việc chuyển tài
liệu đi các nơi.
Lại một lần
nữa, Nụ lên chùa Quan Nha ở Duy Tiên gặp sư ông Thích Chí Nguyện để nhận tài
liệu. Hôm ấy về đến ngã ba Hồng Phú, mỏi chân quá Nụ lên xe tay, ôm ró dâu trước
ngực vì đáy ró có tài liệu mật. Gặp bọn lính nghênh ngang trước cửa đồn. Chị
qua đây nhiều lần nên chúng quen, mấy thằng chạy ra ỡm ờ:
- Em Nụ hôm
nay đi đâu về mà chơi sang vậy?
- Chị đi mua
dâu về, em ạ.
- Tằm nhà em
sắp chín chưa?
- Tằm chị
đang ăn rỗi.
- Bao giờ Nụ
kéo chỉ, nhắn các anh về ăn nhộng nhé?
- Ừ. Độ dăm
ngày nữa, các chú xuống chị mua bánh đa về cho các chú ăn với nhộng.
- Nhớ nhé!
Thể nào chúng anh cũng xuống đấy.
Một
thằng đáng tuổi em trai Nụ, toe toét nói:
-
Nhà
ơi, về thổi cơm trước đi nhé!
Bọn chúng cùng cười hô hố. Nụ ngoái
lại:
- Có gánh
giúp chị gánh dâu thì cùng về.
Nụ cứ nhấm
nhẳng đối đáp như vậy để đi qua trót lọt.
Đêm ấy, Nụ và
chị Tân ngồi soạn tài liệu trong buồng. Bỗng có tiếng gõ cửa, hình như có cả tiếng
va lách cách súng ống. Hai chị em bỗng lạnh toát người. Lính về! Nhanh chóng,
Nụ trút đống tài liệu xuống đáy hố đào sẵn trong buồng, rồi để vò tương lên
trên. Đêm ấy hai người đành nằm ở ngoài bãi tha ma, thay nhau người ngủ, người
thức. Độ sang canh tư, hai chị em lóp ngóp mò về. Thì ra tên lý trưởng đã chỉ
điểm cho mật thám. Đêm ấy, nó dẫn lính ập vào nhà. Bọn chúng lục soát khắp mọi
nơi chẳng tìm ra chứng cớ nào. Hắn nói vu vơ: "Nhà này có con mụ cộng sản,
nó vẫn hay đi về. Hãy liệu hồn!".
Tình hình trở nên nguy hiểm. Cơ sở phải chuyển
về Chiềng Núi, ở luôn trong gia đình bà mẹ đẻ sư Thu. Ngôi nhà tre ba gian nằm
sát chân núi đất, mặt trông ra cánh đồng. Muốn vào nhà phải đi qua ngôi chùa
Chiềng. Sau chùa, đứng chênh vênh lưng núi là cây thông già, gốc rễ xù xì hang
hốc là nơi giấu tài liệu. Lên nữa là rừng thông bạt ngàn chạy dọc triền núi
đất. Nơi đây là một xóm núi, vắng vẻ hiu quạnh.
Bà mẹ sư Thu,
một bà cụ điềm đạm, phúc hậu. Cụ coi mọi người như con cái trong nhà.
Một đêm, cơ
sở bên làng Nhuộng, huyện Ý Yên bị mật thám vây bắt, anh em chạy thoát khỏi
làng, về tới Chiềng Núi thì đã nửa đêm. Đêm ấy, nhà lại hết gạo. Biết anh em
đang đói lắm, bà cụ loay hoay dưới bếp một hồi rồi bưng lên rổ rau diếp sống
cùng một đĩa mắm tép. Nhìn anh em quây quần ngồi ăn ngon lành, bà cụ kéo dải
yếm lau nước mắt. Vậy mà loáng cái, rổ rau cũng hết. Anh Bạch Thành Phong đứng
dậy, bảo: "Chẳng cái gì ngon bằng cái đói, mẹ ạ. Vua còn khen mầm đá là
ngon nhất kia mà". Bà cụ cười móm mém bảo: "Sáng mai em Thu nó mang
gạo về cho các con ăn". Nhìn thấy áo anh Lý rách vai, quần anh Bạch Thành
Phong toạc ống, bà cụ nhắc các anh thay ra để đêm nay mẹ ngồi vá. Chợp mắt được
hơn một canh, họ bấm nhau dậy đi trước khi trời sáng. Bà cụ lần ruột tượng đưa
cho mỗi người mấy xu để đi đò, uống nước. Anh em cúi đầu chào cụ rồi lặng lẽ ra
đi trong sương mờ.
Lần này chị
Tân trở về vùng công giáo Tiêu Động, làng quê anh Phu. Ở đây có chợ Dằm nằm sát
bờ sông Sắt, chợ do thằng Pháp xây dựng từ những năm 1930, có trường Tiểu học
Pháp - Việt. Làng có mấy anh em học Trường Kiêm Bị ngoài phố Phủ, sau khi bắt
liên lạc được với anh Phạm Văn Phu, một số trở về làng hoạt động.
Riêng đầu
làng Tiêu Hạ có ngôi đình cổ, nơi gặp nhau họp hành của cán bộ Xứ uỷ. Anh Phu
đã cho xây một cái bể đựng nước mưa ở sát mái đình. Bể được xây làm hai đáy.
Đáy dưới cùng dùng để cất dấu tài liệu. Đáy trên đựng nước. Nơi đây nằm trong
tuyến giao thông quan trọng của Xứ uỷ từ Hưng Công, Cổ Viễn qua Tiêu Động sang
Thanh Liêm vào tận Quỳnh Lưu, Ninh Bình. Một địa điểm hoạt động của Xứ uỷ, lại
ở giữa vùng công giáo. Chị Tân hàng ngày luôn cảnh giác đối phó với những phần
tử phản động đội lốt thầy tu, những chánh hội, phó lý, trương tuần nơi hương
thôn nhòm ngó.
Việc đầu
tiên, chị bắt tay vào xây dựng một đội tự vệ. Đội viên được chọn từ các đoàn
thể quần chúng. Người ấy có người thân ở xa không? Quan hệ với tổng lý thế nào?
Tinh thần yêu nước ra sao? Rồi thử thách giao việc.
Đội tự vệ có
mười hai người, luyện tập vào những đêm trăng dưới chân núi An Lão, một quả núi
đất cao, nằm lừng lững giữa đồng bằng rộng lớn. Khoá học có mời thêm bác Trương
Kiện, người ở cơ sở làng Dâu dạy võ với nội dung: tập gậy, trường côn, đoản
côn, võ tay không, vượt tường...
Buổi khai
giảng, bác Trương Kiện biểu diễn mấy đường quyền. Bác xuống trung bình tấn rồi
tả xung, hữu đột, ứng biến khôn lường. Anh em nhìn tối mắt mà thán phục một lão
trượng oai phong. Hôm ấy, chị Tân tóc búi, nai nịt gọn gàng, bất ngờ bước ra
biểu diễn võ thuật tay không. Tay chân chị vung dẻo mà dứt khoát. Bất ngờ chị
vỗ đùi cái “đét” rồi nhảy vút lên mái
gianh, phốc khỏi tường rào trước sự ngỡ ngàng đến kinh ngạc của mọi
người. Từ đây, lớp học bước vào tập luyện suốt nửa mùa trăng.
Rồi một đêm
trăng xế, chị Tân cùng hai tự vệ về thăm Tiêu Thượng - làng anh Phu, một làng
công giáo toàn tòng. Giữa làng sừng sững uy nghi cái tháp chuông của một nhà
thờ đồ sộ. Bao quanh là xóm mạc, lúp xúp những mái gianh nghèo, tre pheo, vách
đất. Giáo dân hầu hết làm cái nghề mò cua bắt ốc, ngụp lặn ở khắp các xứ đồng
xa. Nhà anh Phu vắng chủ, hai cánh cửa liếp được vá víu bằng những mảnh mê
thuyền rách, khóa hờ bằng chiếc khoá cũ han gỉ. Ánh trăng bạc soi chênh chếch
lên túp nhà nằm xiêu xiêu trên mảnh đất chật hẹp. Đêm tịch mịch, chị Tân ngồi
lặng bên thềm. Bỗng nỗi buồn sâu thẳm trong chị dâng lên. Một làn mây mỏng che
khuất vầng trăng, chị ngoảnh mặt kéo vạt áo lau nước mắt. Mai chị ra đi.
Về Đoan Vỹ kỳ
này, chị đóng vai người đi mua dâu tằm. Nhà chị Binh Thệ có vườn dâu xanh tốt
lại có cổng đóng then cài. Nghe tiếng rao "Ai bán dâu không?", chị
Thệ liền gọi vào. Tối ấy, chị Tân cho người đi báo cho chị em về nhà chị Thệ để
họp. Đêm họp xong, tất cả ở lại, trải chiếu xuống đất, ngủ tập trung để mờ sáng
ra đi làm nhiệm vụ. Tài liệu được vê tròn như tổ sâu kèn rồi luồn vào cạp quần,
gấu quần, gấu áo, khăn vấn đầu để sáng mai khoác bên nách chiếc bị lép mà tung
tẩy khắp nơi. Có khi sang cả Ý Yên, vào tận trong Gia Viễn để trao tài liệu đến
tận tay các cơ sở bí mật.
Nhà chị Thệ
có chồng đi lính sang Pháp nên thường gọi là chị Binh Thệ. Là gia đình vợ lính
đang ở bên Pháp nên chị Tân ra vào tự nhiên, bọn hương lý không để ý nghi ngờ.
Đã có lần, vài anh trương tuần đang đêm ghé vào "thăm" chị Thệ. Chị
hô hoán làm bọn chúng khiếp vía. Lần sau chớ có dại mà động vào vợ lính! Chính
vì vậy, chị Tân đã gần gũi tuyên truyền giác ngộ chị Thệ. Một lần, chị Tân đưa
cho chị Thệ bài thơ “Phụ nữ đòi chồng”:
Nước non xa cách nghìn trùng
Ai gây chiến hoạ mang chồng ta đi
Chồng ta có tội tình gì
Ta đâu có oán thù chi nước người
Mưa bom, bão đạn tơi bời
Mang chồng ta biến làm mồi Thần công
Hỡi quân hiếu chiến tàn hung
Giết nhau chi nữa, giả chồng ta đây
Chồng ta tuổi trẻ hây hây
Cũng dòng vẻ sĩ, cũng tay anh hùng
Thà vì Tổ quốc non sông
Vào sinh ra tử tấm lòng cũng cam
Vi chồng ta bị thác oan
Than ơi vì kẻ lòng tham vô cùng
Hỡi quân cướp nước tranh sông
Oán thù phải trả, tấm lòng mới nguôi
Từ khi có bài
thơ trong tay, chị Binh Thệ suy nghĩ lung lắm. Biết đâu một mối hoạ sẽ gieo
xuống gia đình?! Tuy hàng tháng, chị vẫn được lĩnh số tiền của chồng từ bên
Pháp gửi về đều đặn. Giờ nghĩ thấy chẳng qua nó là đồng tiền vấy máu của thằng
Pháp, nó thuê anh vác súng đi xâm lược nước người. Càng nghĩ chị càng thấy hổ
thẹn mà lo. Biết được nỗi khổ tâm day dứt của chị Thệ, một đêm nằm ngủ với nhau
trên chiếc ổ rơm, chị Tân thủ thỉ giảng giải cho chị Thệ: "Anh ấy đâu có
muốn xa vợ, xa con, xa làng nước để đến nước Pháp ngàn trùng xa cách mà lao vào
trận mạc, binh đao. Nhà chị cũng có người đi lính sang Pháp. Chị nghĩ việc gì
phải đến, nó đã đến rồi. Bây giờ không thể nào khác, chỉ có một con đường theo
chị: Làm cách mạng. Chỉ có làm cách mạng mới có thể đánh đổ được thằng Tây,
thằng Nhật, để giành độc lập cho dân cho nước. Ngày ấy, vợ chồng em mới đoàn
tụ, nhà nhà mới yên vui được. Mỗi người mỗi hoàn cảnh, có nhiều lối làm cách
mạng, em ạ. Dĩ nhiên em không thể xông pha như chị, vì mỗi người mỗi khả năng.
Em cứ làm như lời thề trong buổi lễ tuyên thệ hồi nào ở nhà ông Lý Tính ấy, làm
được như vậy là làm cách mạng đấy, chứ đâu phải gì nữa em!".
Chị Thệ thấy
lòng thanh thản. Vậy là nhà chị Binh Thệ, vợ lính, đã là nơi thường xuyên đi về
của chị Tân, đôi khi anh em cán bộ Xứ uỷ cũng về đây hội họp.
* *
*
Tháng 4 năm 1943,
anh Phạm Văn Phu trở ra Hà Nam.
Lúc này, tin
đại thắng ở Sta-lin-grát của Hồng quân Liên Xô báo hiệu sự bại vong tất yếu của
bọn phát xít. Thường vụ Trung ương lần thứ VIII họp, ra Nghị quyết "Chuẩn
bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và nhân dân ta trong giai đoạn
hiện tại".
Đồng chí Hạ
Bá Cang lúc này đã ở trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng cùng hai đồng chí
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ. Sau khi đồng chí Hoàng Văn Thụ hy sinh, đồng chí
Hạ Bá Cang kiêm luôn Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Ngày 6 tháng
5 năm 1943, anh Cang thay mặt Trung ương về họp với Xứ uỷ Bắc Kỳ ở đình Cổ
Viễn, Bình Lục, Hà Nam. Đồng chí Phạm Văn Phu được giao bố trí cuộc họp ấy. Độ 4
giờ chiều, đồng chí Hạ Bá Cang đến. Vừa đến nơi, để ý tình hình xung quanh,
đồng chí Cang cảm thấy ngay có điều gì không bình thường. Trước nay, đến với cơ
sở quần chúng và cán bộ khác gì người nhà, không ai nhòm ngó, thắc mắc bao giờ.
Ở đây hôm nay thì lạ quá, có người cứ lảng vảng nhìn trộm, cặp mắt đảo đưa. Anh
Cang thấy nghi ngại, hỏi anh Phu:
-
Ở đây chắc chứ?
- Đồng chí
thu xếp cuộc họp mới ở tù ra. Có thể tin cậy được.
- Tôi thấy
thế nào ấy. Đã trót hẹn anh Tuệ ở đây thì cứ lấy nhà này làm chỗ họp, còn ngủ
thì các anh nên tìm nhà khác.
Anh Phu đi
một lát rồi về: "Tìm được rồi, không xa đây lắm". Xẩm tối, anh Phan
Trọng Tuệ đến. Trông anh Tuệ cao lớn, đẹp như Tây lai, mặc áo lương dài, đầu
đội khăn xếp. Anh em gặp nhau, hỏi han dăm ba câu chuyện rồi vào họp ngay. Anh
Hạ Bá Cang móc chiếc đồng hồ quả quýt cũ mèm xem giờ, rồi nói: “Nhiều việc phải
làm lắm. Đại thắng Sta-lin-grát của Hồng Quân Liên Xô hồi tháng 3 năm 1943 đã báo
hiệu cơn bại vong không tránh được của bọn phát xít. Thường vụ Trung ương vừa
họp nhắc nhở toàn Đảng đặt mình vào tình thế khẩn cấp của chiến tranh và cách
mạng, ra những chỉ thị cụ thể về nhiều mặt, chuẩn bị gấp rút cho khởi nghĩa”.
Làm việc đến 2
giờ khuya, anh em tạm nghỉ sang nhà anh Phu đã chọn ban chiều để chợp mắt một
lúc. Đêm ấy, anh Tuệ nằm võng, anh Phu và anh Hạ Bá Cang nằm trên giường. Vừa
thiu thiu thì nghe tiếng chó cắn rộ. Anh Phu choàng dậy mở mắt nhìn ra. Nhiều ánh
đèn pin cứ nhằm vào cái nhà mấy anh em vừa họp mà lia quét. Thấy nguy cấp, anh
Phu giật võng báo cho anh Tuệ, rồi đưa anh Hạ Bá Cang chạy ra sau vườn. Anh Tuệ
thấy mình rơi xuống đất, tưởng mình nằm mơ lại
trèo lên võng ngủ tiếp.
Anh Phu cõng
anh Cang chui qua khỏi luỹ tre rồi tấp xuống một thửa ruộng đã khô, lúa sắp
chín, cây lúa cao ngang ngực. Hai anh ngồi thụp, nghe ngóng. Mươi phút sau,
tiếng chân giày chạy rậm rịch. Tiếng Tây, tiếng ta quát tháo om xòm. Còi huýt
inh tai. Rồi nghe chúng đạp toang cửa nhà nào. Rồi tiếng thằng Tây lai réo lên:
- Thằng Cang
đâu? Thằng Tuệ đâu? Thằng Phu đâu?
Hai anh nằm
im thít, muốn ho cũng chẳng dám húng hắng. Bọn mật thám tức tối:
-
Thằng Cang thọt mà chạy nhanh gớm nhỉ?
Khi trời đã
tảng sáng, nghe tiếng bà con đi chợ bàn tán:
-
Cái nhà ông cao lớn khoẻ thật. Ông ấy chạy, mấy người mật thám đuổi theo mới
bắt được. Bắt được rồi mà ông ấy cứ đạp sấn chực chạy nữa.
“Nhà ông cao
lớn”? Thôi, đúng Tuệ bị bắt rồi. Hai anh bàn nhau làm sao đi khỏi chỗ này? Lát
sau nghe ngóng thấy tuần làng đã thu quân, vậy là mật thám cũng đã rút. Hai anh
chui ra từ ruộng lúa. Anh Cang gỡ áo lương trùm đầu vừa che nắng vừa che mặt
cho khỏi bị lộ. Anh Phu thì áo lương vắt tay, giả làm người đi ăn giỗ. Các anh
nhanh chóng thoát khỏi làng Cổ Viễn.
Về sau hỏi ra
thì được biết tên Hồ Sĩ Trừ, huyện uỷ viên Vũ Thư, Thái Bình bị bắt. Sau khi bị
bọn Pháp mua chuộc đã làm chó săn cho chúng, nhưng anh em trong tù không biết đã
giới thiệu hắn ra ngoài. Đồng chí Ngọc, Khu uỷ viên phụ trách nó, giới thiệu đi
làm công tác đội cho đồng chí Phạm Văn Phu. Chính hắn đã chỉ điểm cho mật thám
vây bắt ba anh em trong phiên họp ấy.
* *
*
Cuối
tháng 5 năm 1943
Anh Hoàng
Quốc Việt và anh Phạm Văn Phu cùng về làng Sải, Quỳnh Lưu, Nho Quan. Anh Phu
vẫn ở nhà ông Chánh Thành. Anh Việt ở nhà ông Phan Văn Nông, nhà ông có năm gian
nhà gỗ lợp gianh, quay hướng nam bên cạnh nhà anh Vạc. Ông Nông xây thêm một
gian buồng. Buồng này có một ngăn nhỏ ở cuối, tường quét vôi trắng. Cánh cửa từ
ngăn lớn sang ngăn nhỏ cũng quét vôi. Như vậy, nhìn vào thì tưởng buồng chỉ có
một ngăn. Khi có động, các đồng chí đang họp ở ngăn lớn sẽ luồn sang ngăn nhỏ.
Ngăn trong này lại có cửa thông sang nhà anh Vạc mà chạy thoát.
Ở đây, anh
Hoàng Quốc Việt cho triệu tập một cuộc họp. Thành phần đại biểu là những đồng
chí đảng viên đại diện cho bảy cơ sở thuộc Tổng Quỳnh Lưu. Nội dung bàn về việc
xây dựng chiến khu cách mạng, tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Sau hội nghị,
anh Phạm Văn Phu bàn với anh Hoàng Quốc Việt: Cán bộ Xứ nhiệt tình cách mạng
cao, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp nhưng còn bỡ ngỡ trong hoạt động. Mà không
có lý luận cách mạng thì không thể có hành động cách mạng. Mà hoạt động cách
mạng thì ít nhất phải có khái niệm quân sự
sơ khai để các đồng chí vận dụng vào thực tế đấu tranh cách mạng. Anh
Việt nhất trí cho mở lớp huấn luyện quân sự và chính trị cho cán bộ Xứ.
Lớp huấn
luyện mở tại Đồng Báng, giáo viên lên lớp là anh Hoàng Quốc Việt và anh Phạm Văn Phu, học viên về dự có các
anh Lê Quang Đạo, chị Ba (Minh Châu), chị Tân, chị Hoàng Thu, chị Hà Thị Quế,
anh Vũ Nhất, anh Vũ Thơ... Lớp học đóng lại nhà bà Đinh Thị Du. Ban ngày, tập
quân sự ở vườn Thổ thần xóm Đồi Xưng, xã Sơn Lai. Ban đêm, học lý thuyết ở nhà
bà Du. Chương trình học bảy ngày, anh Hoàng Quốc Việt giảng về nguyên lý chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, chính sách của Đảng về mặt trận Việt Minh, anh Phu giảng về
quân sự.
Ngày kết thúc
khoá học, anh Phu cho mua một con lợn, mang về mổ thịt. Lấy lá ổi nhồi vào bụng
lợn rồi khâu lại, đóng cọc, quạt than rồi quay đều trên than củi. Con lợn chín
vàng rộm, đem bày tiệc liên hoan chia tay các đồng chí ở các tỉnh xa.
Phong trào
tuy đã phát triển nhưng tình hình còn hết sức phức tạp. Bọn mật thám ngầm xây
dựng một tổ chức "Ăng-ty Bôn-sê-vích". Khi về Hà Nam bắt mối, anh Phu
có xây dựng được một cơ sở do tên Trọng, người đồng hương, phụ trách. Trọng có
hàm răng vổ lớn. Trước đó, từng tham gia hoạt động bí mật, nhưng khi bị mật
thám bắt, vì không chịu được đòn, đã đầu hàng giặc và tham gia nhóm AB do Phán
Tảo chỉ huy. Khi anh Phu về, chúng chưa muốn bắt ngay vì biết anh thường xuyên
liên lạc và gặp gỡ anh Hoàng Quốc Việt "một nhân vật quan trọng đang là
Thường vụ Trung ương". Trọng tích cực hoạt động, gây được tín nhiệm với
anh Phu và được anh giới thiệu đi học lớp bồi dưỡng cán sự tỉnh cho Liên khu C.
Tại lớp học khi biết anh Hoàng Quốc Việt với anh Phu và Phan Lang sẽ tổ chức
Hội nghị Liên C vào ngày 15 tháng 8 năm 1943 thì Trọng đã mật báo cho Phán Tảo.
Tảo lệnh cho Phó Quanh, người Quỳnh Lưu, làm chỉ điểm dẫn năm chục lính vây ráp
nhà anh Phan Văn Phán. Chúng bắt được anh Phan Lang, Phan Vỹ.
Trọng được điều về Ninh Bình để nhận
diện cán bộ đang ở trong nhà tù Ninh Bình. Trong đó có các đồng chí Phan Long,
Phan Lang, Vũ Thơ...
* *
*
Ngoài Hà Nam,
giặc cũng khủng bố gắt gao. Cơ sở chùa Lác, Nụ bị bắt trên đường chuyển tài liệu
đi Mã Não. Tại Sở Mật thám Nam Định, Nụ
bị tra tấn, mặt mày sưng húp. Thằng Chi rỗ nhăn nhở nói với Nụ:
- Thôi nhận
đi! Nhận đi thì được sống mà về.
Nhìn tên phản bội, đầu thú với giặc, Nụ uất
lắm. Nụ nghĩ: Vì mày mà chùa Mã Não bị lục soát, sư cụ bị đánh chết, sư Thu bị
tra tấn và tao bị bắt vào đây. Biết chối thế nào bây giờ? Nhanh trí, Nụ đứng
lên chỉ tay vào mặt hắn, giọng đanh đá:
- Đồ đểu cáng!
Mày hỏi tao làm vợ, tao không lấy vì mặt mày rỗ như tổ ong lại đen như đít nồi.
Mày vu cáo tao làm cộng sản để trả thù. Đồ hèn, quân khốn nạn!
Bị phản công
bất ngờ, Chi rỗ trâng tráo nói: “Đúng nó đấy. Nó theo cộng sản đấy”, rồi hắn
lẩn nhanh. Bọn lính được lệnh vung roi da quất vào mặt Nụ. Nụ chúi người vào
bức tường, khăn tóc sổ tung. Búi lại mớ tóc sau gáy, Nụ ngẩng phắt đầu lên nói:
- Nó không
lấy được tôi, nó vu oan để trả thù tôi. Tâm địa nó như chó sói. Đồ chó sói!
Tên mật thám
đeo kính đen to bản, ốp lấy bộ mặt bị thịt, hau háu nhìn Nụ. Đoạn hắn hất hàm
cho lính. Lập tức bọn chúng xô vào lột hết quần áo của Nụ. Rồi lần lượt cặp
điện vào hai núm vú, cặp cả vào chỗ "hiểm" của Nụ. Tên mật thám vừa tra
tấn vừa nhe bộ răng vàng, cười nhăn nhở. Hắn đứng chống nạnh, quát:
- Tao hỏi mày
có khai không?
- Tôi không
biết khai cái gì.
Hắn phất tay,
một thằng lính cắm đầu quay điện. Nụ hét lên, co cắp người lại.
- Thế nào,
mày hoạt đồng với thằng nào?
- Tôi đã nói
với các ông là thằng Chi rỗ nó vu oan để trả thù tôi.
- Muốn sống
thì khai ngay, hay mày thích chết?
- Tôi là đàn
bà con gái ở xó quê, chữ nghĩa tôi không biết. Tôi không biết cộng sản là cái
gì.
Điện lại
quay. Người Nụ giật lên như phải bỏng. Nụ chết ngất, chúng khiêng Nụ ném xuống
trại giam rồi giội lên mặt một thùng nước lạnh. Nửa đêm Nụ tỉnh dần, cố gượng
ngồi dậy dựa lưng vào tường. Nụ nhớ lời dặn của anh Phu: "Khi bị địch tra
tấn thì lời khai trước sau phải như một, kiên quyết không thay đổi. Phải nghiến
răng chịu đòn. Nó đánh chán rồi nó thôi. Chớ thấy nó đánh đau mà khai ra một tý
là lập tức nó đánh dã man hơn, buộc phải khai bằng hết. Càng khai nó càng đánh
chứ đừng hòng nó tha". Vâng! Em nghe lời anh. Em quyết giữ trọn lời thề
với Đảng, với cách mạng.
Mấy hôm sau,
chúng không tra tấn nữa. Nụ được tắm rửa sạch sẽ, được ăn ngon mặc đẹp. Thằng
Phán Tảo sau vụ vây bắt các anh Phan Long, Phan Lang... ở Quỳnh Lưu, Nho Quan,
giờ hắn đã có mặt ở đây. Hắn ăn mặc chải chuốt, lịch sự mở cửa phòng giam dẫn
Nụ ra ngoài dạo chơi. Hắn dẫn Nụ đi quanh trại lính. Nhìn những thằng Tây râu
sồm, mặt đỏ như gà chọi, mắt cú mèo, mũi bói cá, dữ dằn hau háu nhìn Nụ. Nụ
thấy rợn người! Phán Tảo ghé tai bảo Nụ:
- Bọn này
"điên" gái lắm đấy! Cô nào bị ném vào đây thì chỉ có nát tươm với
chúng nó - Rồi hắn ngọt ngào - Nụ, anh yêu em. Muốn cứu em, nhưng em phải khai
đi, khai đi thì họ mới tha. Anh sẽ cưới em làm vợ. Em sẽ được sung sướng, tội
gì. Em xinh đẹp nhường này lại chịu chết
cho uổng đời.
- Vâng, là
người ai mà chẳng muốn được sống, được sung sướng nhưng sống mà làm những điều
tội lỗi thì tôi không bao giờ làm.
- Đúng! Anh
biết em không bao giờ làm, nhưng ví dụ, chỉ cần em khai rằng em đã nhìn thấy
thằng cộng sản nào thường đi về nhà ai? Hắn bảo ai đi làm những việc gì? Vậy
thôi, đời em sẽ lên tiên!
- Vậy ông bảo
tôi cứ vu cáo, đổ tội cho người ta để rồi chuốc lấy oán thù à?
- Em bướng
lắm chẳng chịu nghe anh.
- Tôi đã nói,
tôi không bao giờ làm những điều thất đức để suốt đời mang tiếng nhục với dân
làng. Mong anh hiểu cho!
- Thôi được,
tùy cô...
Cánh cửa sắt
buồng giam lại rít lên. Rồi chiếc khóa thép lách cách lạnh lùng sập lại.
Tra tấn, dụ
dỗ mãi không được, chúng kết án năm năm tù giam ở nhà ngục Phủ Lý.
Cùng lúc này,
cơ sở ở làng Đoan Vỹ ông Lý Tính cũng bị bắt, đang bị tra tấn cực hình ở Nam
Định. Chúng buộc chung hai đầu ngón chân cái ông lại rồi xỏ dây thừng rút ngược
người lên xà nhà. Đầu ông thõng xuống lửng lơ. Một thằng cầm chiếc máy lửa
"Con đầm xòe" giương lên chờ lệnh. Tên mật thám hất hàm, thằng kia
liền bật lửa đốt râu cằm ông Lý. Khi râu đã cháy trụi, khét lẹt, nó liền móc
lưỡi câu vào hai bên mép ông. Cứ mỗi lần hỏi cung, ông Lý nhất mực "Nhà
tôi không chứa cộng sản", lập tức hai tên lính đứng hai bên cùng giật lưỡi
câu. Máu ở hai khóe miệng ông chảy tưỡi xuống đất. Ông quằn quại dưới sợi dây
thừng...
Hôm sau ở
trong nhà giam, ông nhắn tin về cho người nhà: "Phải lập tức loan báo ngay
cho những đồng chí còn đang hoạt động trong làng ta hãy tạm lánh. Kẻo tôi khi
bị đánh mê man, bất tỉnh nhỡ ra nói linh tinh thì chết".
Tình hình
căng thẳng. Một số cơ sở vững ở Thanh Liêm và cả vùng Nhuộng, bắc Ý Yên cũng bị
triệt phá.
Ngày 24 tháng
12 năm 1943, trên đường đi Thái Bình để phổ biến nghị quyết Trung ương, anh
Phạm Văn Phu bị địch bắt ở Đồng Châu. Kẻ địch hý hửng bắt được người cộng sản
cầm đầu phong trào Liên tỉnh phía nam Bắc Kỳ. Chúng không trói, không cùm mà
mời anh lên phòng giấy. Tên mật thám ra vẻ thân mật mời anh ngồi xuống chiếc
ghế đẩu thấp tè trước mặt hắn. Đoạn, hắn khoan thai mở hộp thuốc xì gà mời anh
một điếu, rồi nhoài người bật lửa "đầm xòe" mời anh châm trước. Anh
cảm ơn và bỏ điếu thuốc xuống mặt bàn. Hắn thản nhiên cắm một điếu xì gà gộc đen sì vào miệng. Pách, chiếc máy
lửa "con đầm" liền giạng háng, ngọn lửa xanh xòe ra ở giữa chỗ háng,
hắn dí điếu thuốc vào "chỗ ấy" rồi kéo một hơi. Một cụm khói như phủ trùm
lên mặt hắn. Hắn ngả người lên chiếc đi-văng vẻ khoan khoái. Đoạn hắn ngồi nhổm
dậy, với giọng tỉnh táo, hắn nhấn từng câu:
- Rất hân
hạnh được gặp ông, người mà lâu nay chúng tôi từng biết tiếng. Hôm nay, chúng
ta có dịp cùng ngồi đàm đạo với nhau về thế cuộc. Rất mong ông bày tỏ chính
kiến!
- Vâng. Các
ông hỏi tôi điều gì, tôi nói điều ấy. - Anh Phu lạnh lïng trả lời.
- Lâu nay,
các ông và chúng tôi cùng theo đuổi một ý chí làm sao cho dân nước An Nam mình được giàu có, được văn minh, sung sướng.
Song, giữa chúng ta cách làm trái ngược nhau để trở thành đối đầu với nhau, làm
kẻ thù của nhau. Thiết nghĩ "Trăm cái lý chẳng bằng tý cái tình", chi
bằng anh em cùng ngồi thương lượng nhằm cái đích là đưa ánh sáng văn minh bên
"Mẫu quốc" tỏa dạng muôn nơi trên đất Việt. Tôi rất mong ông tỏ ý chí
cùng chúng tôi. Dĩ nhiên, chúng tôi sẽ suy tôn ông lên vị thế đặc biệt. Ông
thấy thế nào?
- Ông nói gì
mà tôi thấy nó vừa văn hoa vừa lằng nhằng? - Anh hỏi lại - Ông bảo bên "Mẫu quốc"
ư? Vâng, thử hỏi ông: Vậy nó là cái "Nước mẹ" gì? Xin ông nên hiểu
cho: Chúng ta đều là con dân nước Việt, lẽ ra ông phải đau xót trước cảnh nô
lệ, lầm than của hàng chục triệu đồng bào ta dưới ách cai trị của thực dân Pháp
ngót một trăm năm!?
- Khuyên ông
chớ quá lời! - Hắn gằn giọng - Ông cũng nên hiểu, ông đang ở trong tay chúng
tôi.
- Vâng! Sa
vào tay các ông, tất nhiên chúng tôi đã lường trước những gì sẽ đến.
- Tôi hi vọng
ông hãy bình tĩnh suy nghĩ thêm một lần nữa - Hắn hạ giọng.
- Tôi chỉ có
một suy nghĩ sẽ cùng đồng bào cả nước đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược đến
cùng. - Anh Phu thẳng thắn trả lời.
- Thôi được.
Thế là đã rõ! - Hắn ném điếu thuốc xuống sàn rồi đứng lên, bước ra sân.
Hai tên lính
liền xộc vào xốc nách anh Phu đứng dậy...
* *
*
Ba ngày sau,
chiếc xe hòm chở anh Phạm Văn Phu đỗ xịch trước nhà giam ở Phủ Lý. Cửa xe mở,
anh Phu bước xuống với thân hình kỳ dị: Đầu quấn vải băng trắng, máu còn đọng
khô trên lớp vải, đôi mắt anh như lồi ra, thâm tím nửa vùng mặt. Anh tập tễnh
bước đi giữa hai tên lính áo vàng. Mấy ngày ở nhà giam, anh lên cơn sốt ly bì,
đến bữa chúng đặt cạnh anh lưng tô cháo loãng gạo đỏ. Nhưng họng anh sưng tấy
không nuốt nổi. Anh cố gượng dậy lê chiếc cùm dưới chân rồi vịn tường đứng lên.
Nhìn qua song sắt anh thấy ngoài kia, có một đám người tù đang lụi cụi vác đá
hộc từ dười thuyền ván đinh từ bến sông Châu lên bờ. Lại một đám tù nữa cúi
xuống hì hục vác đi nơi khác. Anh thấy xót xa nhìn anh em rách rưới, gầy guộc
đang gắng gượng vác những hòn đá hộc, liêu xiêu bước đi. Chắc ai cũng đang đói
lắm. Bỗng đánh huþch. Một người dáng mảnh khảnh bị ngã khụy. Hòn đá hộc đổ xuống bàn
chân. Lập tức anh em đều vứt đá xuống giữa đường, chạy ùa lại mặc cho bọn cai
tù vun vút roi mây, roi cặc bò trên đầu. Và đằng xa một cô gái quần bạc phếch,
áo nâu vá vai chạy vội tới. Giọng cô lanh lảnh: "Người ta yếu thế này mà
các ông nỡ lòng hành hạ? Thịt da ai cũng là người. Các ông ác vừa chứ!".
Đoạn cô cúi xuống, xé phăng mảnh khăn bịt đầu băng bó cho người ấy. Bỗng trong
anh em có tiếng hô: "Đả đảo đánh đập!". Lập tức tiếng hô "Đả đảo!"
đồng thanh hét lên. Cô gái đứng dậy dẫn đầu đoàn người tù khiêng người bị nạn
lên Dinh Công sứ Hà Nam. Thấy ngờ ngợ, anh Phu dụi mắt để nhìn cho rõ: Ôi, Nụ!
Thì ra là Nụ, cô bé giao thông của anh vẫn minh mẫn can trường lắm! Đoàn người
đi khỏi, anh cố gắng gượng nuốt từng thìa cháo nhỏ. Anh thong thả cố nuốt từng thìa
cháo để lấy sức. Anh tự ra lệnh cho mình.
Anh ốm nặng
quá. Ngay sau chiều hôm ấy, chúng phải chuyển anh sang Nhà thương Phủ Lý để
chữa trị. Anh bị biệt giam ở phòng riêng. Dù đang ốm đau nhưng chiếc còng số
tám vẫn khóa cứng chân anh vào khung giường sắt. Ngoài xa, tiếng đập đá của
những tù khổ sai vọng về. Không hiểu các cơ sở trung kiên Hà Nam quê anh đâu
còn, đâu mất? Mà sao các đồng chí của anh bị bắt vào đây đông đến vậy? Kẻ nào
đã đầu thú? Anh thấy mình phải mau mau tìm cách trở về gây dựng lại phong trào.
Và cái ngày Tổng khởi nghĩa sắp đến như đang thôi thúc anh.
Một trưa chớm
hè, nắng mới bừng lên đem cái mệt nhọc cho mọi người. Ai nấy đều lim dim đôi
mắt. Không gian như tĩnh lại…
Mấy ngày qua
khi bị đưa về giam ở Nhà thương Phủ Lý, anh thường được một chàng trai y tá thư
sinh lên thay băng, cho thuốc. Tên anh ta là Vũ Lăng, nghe nói là học sinh Hà
Nội và có cảm tình với cách mạng. Đúng trưa ấy, Vũ Lăng trực thay hộ người bạn
nhưng chả hiểu do vô tình hay cố ý lại bỏ trực xách vợt ra sân chơi quần vợt.
Vậy là thời cơ đã đến! Anh lần trong gấu
quần lấy ra chiếc đinh năm phân của người bạn tù đưa cho hôm trước. Phải thật khẩn
trương. Cúi gập người, anh loay hoay nhét cái đinh vào ổ khóa rồi nhè nhẹ lựa
thế. Lựa mãi, lựa mãi mà chưa được. Hai tay mỏi nhừ, mồ hôi toát ra như tắm.
Bỗng “pách!”, chiếc còng số tám mở miệng ra. Khóa đã tách rời. Anh cố đứng dậy,
lần ra cửa sổ, bẻ cong song sắt rồi nhảy phốc xuống vườn rau. Không may cho
anh, người coi vườn trông thấy, tưởng là kẻ trộm liền hô hoán. Mặc, anh cắm đầu
chạy về phía Bảo Thôn. Liền sau đó, bọn lính cơ lập tức mang súng ống rầm rập
đuổi theo. Chúng huy động cả bọn cảnh binh, tổng lý, tuần phiên ở Thanh Liêm
tham gia vây bắt. Cuối cùng, bọn trương tuần ở Thạch Tổ đã bắt được anh.
Cánh cửa nhà
giam Phủ Lý lại rít lên.
Tiếp tục những
trận đòn chết đi sống lại nhưng anh vẫn kiên cường bảo vệ đến cùng bí mật của
Đảng. Anh nói thẳng vào mặt chúng: "Tao biết cơ sở là để làm cách mạng chứ
không phải là để khai với chúng mày!". Và lần này, chúng dùng kim châm vào
cả mười đầu ngón tay... Chúng trói giật cánh khuỷu bằng thanh gỗ rồi dìm đầu anh
vào chum nước cho ngạt thở...
Anh vẫn vững
như sắt đá!
Cuối cùng,
chúng giải anh về Ninh Bình để Tòa án Ninh Bình xét xử.
Anh thầm
nghĩ: Được lắm. Đằng nào thì chúng mày cũng xử án để bỏ tù tao. Nhưng về Ninh
Bình, mảnh đất tao từng lăn lộn, gắn bó với phong trào, chắc chắn tao sẽ được
gặp các đồng chí cùng bị giam cầm như tao. Chúng tao sẽ thống nhất cách tranh
đấu với chúng mày trước tòa án.
Vào một buổi
sáng tháng 4 năm 1944, phiên tòa được xét xử công khai tại sân vận động Ninh
Bình. Dân chúng đổ về khu vực được đóng gióng tre vây quanh. Bọn lính cơ, súng
ống nai nịt gọn gàng đứng rải vòng ngoài để bảo vệ.
Đúng 8 giờ,
chục chiếc ô tô đổ người xuống. Đi đầu là các quan Tây ăn vận đồ theo chức sắc.
Rồi đến các quan ta xúng xính trong bộ áo gấm lam, quần trắng, ngực đeo thẻ bài
ngà, chân đi giày Gia Định. Đó là các quan tuần phủ, án sát, thẩm phán, bồi
tụng... và đoàn Luật sư. Cả một tập đoàn đế quốc và phản động tay sai đi giữa
hai hàng lính Tây bồng súng. Bọn sĩ quan đội mũ lưỡi trai, đeo lon ngù, súng
ngắn. Tiếng hô bồng súng: Hự, hự.
Trên bục, các
quan toà Tây mặc áo đen. Mỗi chánh án, phó án đều có một thanh kiếm để trước
mặt.
8 giờ 30,
viên Chánh án giọng sang sảng truyền cho bọn lính khố xanh áp giải bọn tù cộng
sản ra trước vành móng ngựa. Không khí phiên tòa như nén lại, ai nấy đều hồi
hộp chờ đợi... Anh Phạm Văn Phu tay vẫn bị xích, đi đầu. Rồi lần lượt các anh,
Phan Lang, Trương Văn Công, Trương Đình Dần, Trương Văn Liên... Đây là những
đồng chí bị bọn Phán Tảo, Phó Quanh đem lính về vây bắt vào đêm ở Quỳnh Lưu,
Nho Quan.
Sau khi viên
quan tòa to giọng đọc bản cáo trạng, viên công xứ Pháp đứng lên xì xồ dọa nạt.
Rồi đến viên chánh án giọng "đanh thép" luận tội.
Chờ cho bọn
chúng hung hăng trên bục quan tòa xong, anh Phạm Văn Phu thay mặt cho anh em,
đứng trước vành móng ngựa, dõng dạc trả lời bọn quan tòa. Anh nói:
- Chúng tôi
không có tội. Làm Việt Minh để đánh Pháp, đuổi Nhật, cứu nước, cứu nhà thì sao
lại có tội? Chỉ có những tên đế quốc cướp nước, những tên Việt gian bán nước
mới chính là người có tội với Dân, với Nước, với Tổ tiên. Hiện nay ở Pháp nhiều
người dân và những bậc thầy của các anh đang đứng lên chống phát xít Đức, bảo
vệ thanh danh nước Pháp. Các anh bảo họ có tội gì? Và xin nói: Bây giờ các anh
kết tội chúng tôi ở đây bằng rày sang năm, cũng tại nơi này, chúng tôi sẽ hỏi
tội các anh!
Bọn quan tòa
cả Tây lẫn ta đều trố mắt, cứng họng. Bỗng một hồi chuông rung lên ầm ĩ. Bọn
chúng vội vã kết án anh Phu ba mươi năm tù. Anh Phu hô lớn:
- Đả đảo thực
dân Pháp! Việt Minh muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!
Lập tức tiếng
hô “Đả đảo!”, “Muôn năm!” của anh em tù nhất loạt vang lên.
* *
*
Trên đường về
trại giam các anh hát vang bài ca "Cùng nhau đi hồng binh". Bọn cảnh
sát Tây đạp vội xe quanh đoàn tù, hô hét dọa nạt. Mặc, các anh càng hát to. Khi
về đến trại giam, một thằng đội Tây tra hỏi:
- Lúc đi
đường ai xui cả đoàn tù hát?
Anh Phu thản
nhiên trả lời:
- Chúng tôi
có miệng thì chúng tôi hát.
Thằng đội Tây
liền giơ thẳng cánh tay đánh anh một cái thật mạnh. Anh Phu ngã quay, máu trào
ra miệng, rụng hai chiếc răng. Anh đứng dậy lấy tay chùi máu trên miệng rồi hô
lớn:
- Anh em ơi,
người Pháp dã man! Đả đảo đánh đập!
Cả khu trại
giam anh em đồng thanh hưởng ứng. Tiếng hô vang dội ra ngoài phố.
Như thế là
một số đồng chí đảng viên, cán bộ nòng cốt của phong trào cách mạng ở Quỳnh
Lưu, Ninh Bình đều cùng ngồi tù với anh. Những đồng chí còn lại ở bên ngòai phải
chuyển vào hoạt động bí mật. Trong khi phong trào quần chúng đấu tranh cách
mạng đang từng giờ, từng ngày cần có sự lãnh đạo sát sao của Đảng. Anh Phạm Văn
Phu thấy lòng như lửa đốt, trong nhà tù anh luôn nghĩ cách liên lạc với các
đồng chí ở ngoài.
Một hôm, anh
được gọi ra phòng chờ ngoài cổng để nhận quà. Ai vậy? Nhìn từ xa anh đã nhìn
thấy người đàn bà khoác chiếc bị cói đứng chờ. Ôi, bà Chánh Thành, anh mừng
lắm. Người lính trực phiên gác này lại là người được anh em giác ngộ, anh ta
đứng ngoài canh phòng. Được dịp may, anh Phu dặn kỹ bà Chánh. Không dám viết ra
giấy vì sợ khi chúng khám người sẽ lộ. Bà Chánh chăm chú nghe từng lời. Anh Phu
nói: "Trước hết, anh em phải giữ vững ý chí chiến đấu, phải nắm vững thủ
đoạn của bọn mật thám để chủ động đối phó. Bọn mật thám là tay sai của địch,
nhưng tra tấn ta nhiều, nó cũng mệt. Chúng chỉ mong sao có được lời khai hợp lý
để trình với chủ Tây. Nếu chẳng may bị bắt thì mỗi người phải chủ động suy nghĩ
xem chúng sẽ hỏi gì?, mình đã để lộ bí mật những gì? mà chuẩn bị lời khai cho
có lý. Những ngày đầu phải gắng chịu đòn, đừng có khai. Sau hai ba ngày bị tra
tấn làm như không chịu nổi mà khai và đem lời khai đã chuẩn bị ra khai với
chúng. Nhớ là lời khai phải thống nhất, trước sau như một. Đừng tạo kẽ sơ hở
cho chúng nó truy vì nếu không có chuẩn bị trước, có những đồng chí chống đối
quyết liệt, mắng chửi lại nó, nó đánh thật đau, lại mất hết tinh thần, lúc đó
khai bừa sẽ rất nguy hiểm!
* *
*
Cuối tháng 4 năm 1944
Cuối cùng bọn
Pháp phải giải anh Phu về Hà Nội rồi đẩy anh vào ngục Hỏa Lò với cái án ba mươi
năm.
Lại một lần
nữa, tiếng khóa lách cách, tiếng cửa sắt rít lên nghe đầy vẻ hăm dọa với những
bộ mặt hung hãn, hầm hè của lũ cai ngục. Khắp người anh thâm tím, đau đớn, đầu
váng, mắt hoa nhưng tinh thần vẫn tỉnh táo. Giữa lúc quỷ sứ nhăm nhăm dùi cui,
cộc, roi da dài... thì anh nghe thấy tiếng các đồng chí mình xôn xao: “Kìa Minh
“Khói”, Minh “Khói” vào đây rồi!”. (Minh
“Khói” cũng là bí danh của anh). Anh đưa mắt nhìn quanh. Bên trong những chấn
song sắt của nhà giam, anh nhận ra đồng chí Trần Đăng Ninh, Lê Tất Đắc, Nguyễn
Lam, Lê Quốc Thân, Nguyễn Chương, Nguyễn Văn Kha, Nguyễn Huy Hòa, Nguyễn Tuân, Vũ
Tuân, Trần Văn Cử, Hoàng Thế Thiện, Lê Trọng Nghĩa...
Việc trước
tiên, các đồng chí ra sức chăm sóc sức khỏe cho anh. Thuốc men không có gì
ngoài một ít thuốc đỏ, thuốc xoa dành dụm cất dấu được. Còn anh tranh thủ mọi
hoàn cảnh để truyền đạt những hiểu biết mới mẻ của mình cho mọi đồng chí cùng
hay. Được biết cục diện chiến tranh ngày càng thay đổi rõ ràng. Thắng lợi dồn
dập của Hồng quân Liên Xô, Hồng quân Trung Hoa trong những cuộc phản công như
vũ bão. Ai nấy đều vui mừng bật lên những tiếng hoan hô, hởi lòng hởi dạ. Tin
vui như luồng gió mạnh truyền nhanh khắp các trại. Nghị quyết Thường vụ Trung
ương (từ ngày 25 đến 28 tháng 2 năm 1943) nêu rõ: "Toàn bộ công tác của
Đảng lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa, chờ cơ hội đưa quần chúng nhân dân ra
chiến đấu”.
Mục tiêu giải
phóng dân tộc đã thu hút suy nghĩ mọi người. Vấn đề vượt ngục vốn đã được nung
nấu từ lâu, nay lại càng trở nên cấp bách. Phải vượt ngục để nhanh chóng trở về
với phong trào, với quần chúng trong tình thế đang sôi sục. Riêng đồng chí Phạm
Văn Phu từ ngày vào Hòa Lò vẫn luôn luôn ý thức: Nếu ở đây chưa kịp trốn mà đã
bị đưa đi Sơn La hay nơi nào khác thì cũng nhất quyết phải trốn bằng được. Dù ở
hoàn cảnh nào, anh Phu luôn nhắc nhở anh em, phải rèn ý chí quyết vượt ngục.
Càng sớm càng tốt.
Thời kỳ này
tù chính trị luôn luôn luân chuyển. Nay chuyển ngược Sơn La, mai xuôi Hoà Bình
rồi Bắc Mê, nên trong nhà tù Hoả Lò không có tổ chức Đảng. Tù chính trị ở đây
tập hợp xung quanh các đảng viên trung kiên. Do nguyên tắc bí mật nên không
phải ai cũng biết vị trí công tác trước khi bị bắt của nhau. Ban sinh hoạt do
tù chính trị bầu ra, đồng chí Phạm Văn Phu được anh em bầu làm Trưởng ban. Ban
đã duy trì được kỷ luật cách mạng trong nội bộ tù chính trị.
Hàng ngày,
anh em tổ chức nghiên cứu chiến lược, chiến thuật quân sự. Ngay ở trong buồng
giam chật hẹp, anh em vẫn khắc phục khó khăn tập quân sự: tập lăn, lê, bò,
toài, tập ném lựu đạn, tập võ tay không... Về mặt chính trị ngoài việc nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối chính sách của Đảng còn tập làm công tác
tuyên truyền xung phong, tập diễn thuyết. Anh Phu phụ trách huấn luyện quân sự,
anh Lê Tất Đắc bồi dưỡng anh em về chính trị và công tác bí mật. Anh Nguyễn
Tuân phụ trách môn diễn thuyết tuyên truyền xung phong...
Trước bao
nhiêu lần tường cao, cổng kín, chúng lại giam từng loại tù vào từng khu riêng,
có tù là đảng viên Đại Việt, có tù đảng viên Quốc dân Đảng... Nhưng anh em tù cộng
sản vẫn giữ vững liên lạc với nhau: dùng ám hiệu gõ vào tường theo lối đánh “moóc”
để thông tin dây chuyền và đặc biệt phải triệt để lợi dụng thời cơ gặp nhau một
cách hợp pháp. Đó là những thứ bảy hàng tuần, ngày bọn địch cho tù nhân ra bãi
cỏ để nghe cố đạo Đơ-ni-pha-ket người Can-na-đa giảng đạo. Anh em mong đợi
những buổi chiều như thế và thường gọi là "chiều giải phóng", còn nó
rao giảng gì thì mồm nó giảng tai nó nghe.
Những
"chiều giải phóng", anh Phạm Văn Phu cùng các anh Nguyễn Lam, Trần
Đăng Ninh, Phan Vân,... thường ngồi cạnh gốc bàng để cùng bàn việc vượt ngục.
Tuy chưa tìm được kế nào gọi là đắc sách nhưng mọi người vẫn quyết nung nấu ý
chí... Các lớp học chính trị, quân sự, dưới sự chỉ đạo của Ban sinh họat nhà tù
vẫn duy trì nề nếp. Song mọi việc tiến hành khẩn trương hơn.
Để chuẩn bị
cho cuộc vượt ngục, Ban sinh hoạt cử một số tù chính trị trà trộn sang khu
thường phạm. Tù thường phạm trong Hoả Lò có một thế giới riêng, thủ lĩnh là Cầm
Văn Dung. Cầm Văn Dung là chi châu Mường La, có học, ghét Tây. Thời kỳ anh
Hoàng Văn Thụ bị bắt giam ở đây, anh Dung cũng có mặt. Tấm gương bất khuất hy
sinh anh dũng của Hoàng Văn Thụ làm cho anh Dung rất cảm phục, do đó có những
cảm tình đặc biệt với những người tù cộng sản.
Anh Dung bị
kết án vì có cô nhân tình dính đến vụ đầu độc Xanh Pu-lốp Thống sứ Sơn La. Tuy
vậy trong tù, anh Dung được hưởng chế độ ưu đãi riêng, được tiếp tế thăm nuôi
đặc biệt, được tự do nằm ngoài hàng hiên, không phải cùm xích. Được tiếp tế
nhiều tiền, anh Dung thao túng được các giám thị và cả các tù thường phạm vốn
là tay anh chị.
Tháng 8 năm 1944,
đồng chí Văn Tiến Dũng Bí thư Xứ uỷ bị bắt giam. Tại nhà tù Hoả Lò, Cầm Văn
Dung đã giúp anh Dũng nhắn tin ra cho Xứ uỷ về việc mình bị bắt.
Đầu tháng 3
năm 1945, anh Phu đã cử anh Lê Trọng Nghĩa gặp Cầm Văn Dung bàn về việc phối
hợp vượt ngục vào lúc nào có thời cơ.
* *
*
Nhận được mấy
chữ của anh Phu từ trong nhà tù Hỏa Lò gửi ra cho chị Tân "Không ở Hà Nam
được nữa. Thằng Phương phản bội rồi.", chị được Xứ ủy điều về Ban Cán sự
Ninh Bình.
Trở lại Quỳnh
Lưu những tháng ngày ảm đạm. Sau vụ giặc Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay, rồi
đặt cân thóc tạ ở khắp nơi, vơ vét thóc trong dân về chất đầy kho để phục vụ
cho chiến tranh. Nạn đói tràn lan khắp nơi. Thây người chết đói nằm phơi rải
rác dọc đường 59, từ Ghềnh lên Nho Quan.
Trước tình
cảnh này, Tuần phủ Ninh Bình sức giấy về cho các tri huyện phải cấp tốc huy
động tuần phu đi gom xác người chết đói trong nội hạt, đem chôn ngay để tránh
xú uế, dịch bệnh. Những xác người chỉ còn dúm da bọc xương, bó sơ trong manh
chiếu rách, đôi chân xương xẩu thò ra ngoài. Có cả xác người, ngắc ngoải, nói
đứt quãng trong hơi thở hấp hối: "Cháu lạy... ô... ông, cháu còn... số…
ống. Cháu cắn cỏ... lạy ô... ông, ông...
đừng chôn... cha...áu...". Mặc! Chiếc xe bò vẫn lọc cọc đi về phía nghĩa
địa rồi đổ ụp xác họ xuống chung một hố đã đào sẵn. Bọn tuần phu vội vã cào đất
lấp qua quýt để còn đi làm chuyến khác. Cả vùng quê rợp cánh quạ đen, tao tác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.