"Cha tôi sinh năm 1907, thọ 60 tuổi, có 40 năm tham
gia cách mạng thì gần chục năm bị giam cầm trong các nhà tù thực dân, hết Côn
Đảo, Nam Định, Ninh Bình, lại Hỏa Lò. Thời gian đó, ông có nhiều bạn tù mà mãi
sau này chúng tôi mới có dịp gặp lại, nhất là các bạn tù cùng vượt ngục Hỏa Lò
tháng 3/1945... - Anh Kháng Chiến con trai trưởng lão đồng chí Trần Tử Bình vào
chuyện -... Đại tướng Văn Tiến Dũng, nguyên Bí thư Xứ uỷ Bắc kỳ, khi nhắc đến
cuộc vượt ngục Hỏa Lò năm ấy đã nói: Hai Xứ uỷ viên Trần Đăng Ninh và Trần Tử
Bình đã cùng anh em tù chính trị dùng phép "thăng thiên" và "độn thổ" vượt ngục...".
Cụ Lê Trọng Nghĩa, HN 2010. |
"Thăng thiên"
vượt Hỏa Lò
Ông Lê Trọng Nghĩa, nguyên Cục trưởng Cục Quân báo đầu
tiên 1950, người trong cuộc rành mạch hồi tưởng: "Anh Trần Tử Bình bị mật thám bắt cuối năm 1943, bị kết án 20 năm tù
khổ sai, đến đầu năm 1944 thì bị đưa về giam tại Hỏa Lò. Còn tôi cùng Nguyễn
Đình Thi bị bắt khi đang rải truyền đơn mừng ngày thành lập Đảng đầu 1942 rồi tôi
bị tống giam Hỏa Lò. Gặp anh Bình, thấy anh là người từng trải, tính tình cởi
mở, lại cùng là dân công giáo nên hai anh em kết thân.
Trong tù, anh Trần Đăng Ninh, Bí thư Xứ uỷ cùng 2 Xứ uỷ viên Trần Tử Bình, Lê Tất Đắc được anh em tín
nhiệm. Anh Bình được bầu làm trưởng "Ban sinh hoạt"; còn tôi phụ trách đối
ngoại giao dịch nên có điều kiện đi lại tự do giữa các khám. "Ban sinh hoạt" thực
chất là một tổ chức đấu tranh công khai của tù chính trị, đã bí mật tổ chức học
tập lí luận, nâng cao khả năng diễn thuyết... Trước khi bị bắt đã dự cuộc họp Xứ
uỷ (ngày 13/11/1943) triển khai nghị quyết Thường vụ Trung ương chuẩn bị Tổng
khởi nghĩa, khi về Hoả Lò, anh Bình phổ biến lại cho anh em. Vấn đề vượt ngục
vốn đã nung nấu nay càng trở nên cấp bách.
Tại Hỏa Lò, tù chính trị
nam và nữ bị giam riêng biệt. Bộ phận nữ là một tập thể kiên cường, có tổ chức,
chị em cũng sẵn sàng. Đặc biệt sự ra đi của đồng chí Hoàng Văn Thụ tác động lớn
đến ý chí của anh em. Cũng trong thời gian này, tin về cuộc vượt ngục của nhóm
tù chính trị Sơn La (trong đó có đồng chí Nguyễn Lương Bằng) vào tháng 8/1943 và
của đồng chí Văn Tiến Dũng vượt ngục Bắc Ninh (tháng 12/1944) thành công càng
động viên mọi người quyết tâm.
Tối mùng 9/3/1945, Nhật đảo
chính Pháp. Ngay tối đó, anh em tù chính trị thống nhất: 1, Kiên quyết giữ vững
khí tiết của người cộng sản, không để bọn Nhật lợi dụng. 2, Triệt để tình hình
rối ren, khi bọn Nhật chưa vững chân, khẩn trương tạo cơ hội vượt ngục. Thời cơ
quý báu đã đến!".
Ông Nguyễn Tuân, sau này là Thứ trưởng Bộ Điện-Than,
có mặt trong nhóm chui cống đầu tiên nhắc lại sự nhanh trí, sáng tạo của anh em
tù chính trị ngay trong đêm 9/3/1945: "Lúc
nửa đêm, một sĩ quan Nhật dẫn tiểu đội lính với súng ống, lưỡi lê vào nhà tù, đã
lừa phỉnh: "Người Nhật đã đánh bại quân Pháp, giúp Việt Nam độc lập. Ngày mai
sẽ thả các anh". Vừa nghe hắn nói, tôi đề đạt: "Các ông nói ngày mai thả, vậy
đề nghị mở cửa các trại để chúng tôi gặp nhau chia tay trước khi về quê!". Hắn
gật đầu. Thế là anh em tù chính trị lợi dụng qua lại trao đổi kế hoạch vượt
ngục".
Ngày 10/3, mọi kỉ cương hà
khắc của nhà tù đảo lộn. Các giám thị và quan chức Pháp cùng gia đình bị dồn
vào một phòng. Giám thị Việt không còn dám nghênh ngang. Anh Bình thống nhất:
Ai có điều kiện thì chủ động trốn, các đồng chí bị án nặng được ưu tiên đi
trước; quỹ tài chính được chia ra.
Lợi dụng lộn xộn về quản
lí, đồng chí Trần Đăng Ninh từ xà lim tử tù cùng một số tù chính trị trà trộn
sang khu giam thường phạm. Sáng 10/3, nhiều tù thường phạm đột nhập vào nhà kho
lấy một số quần áo, chăn chiên, thang, xà beng, cuốc chim... Ngày 11/3, không khí
trong tù càng sôi sục. Cánh thường phạm thử dùng xà beng đục tường, phá nền
xi-măng, đào hầm chui ra nhưng không thành.
Sáng đó, đồng chí Trần Đăng
Ninh cùng anh em bàn kế hoạch vượt ngục. Theo chỉ thị của ban lãnh đạo, ông Nghĩa
báo cho bà Trương Thị Mỹ chủ trương vượt ngục, kịp phổ biến cho chị em. Nhiều
chị em tranh thủ khi người nhà vào thăm đã thay quần áo, trà trộn vào đám thăm
thân trốn ra ngoài.
Ông Nghĩa được giao đi gặp Cầm
Văn Dung, nguyên Tri châu Mường La, bị kết án khổ sai vì liên đới đến vụ đầu
độc Công sứ Sơn La Xanh Pu-lốp. Vốn là người có học, ghét Pháp, trong nhiều năm
là thủ lĩnh của cánh thường phạm nhưng rất trọng anh em tù chính trị, Cầm Văn
Dung nhất trí ngay kế hoạch vượt ngục qua tường rào: Chăn chiên được xé ra, bện
thành những dây thừng. Tù nhân sẽ leo lên mái nhà rồi bắc thang từ đây lần ra
bờ tường. Dây to được buộc cố định vào trụ điện trên bờ tường, thả ra ngoài. Lần
lượt, cứ một tù chính trị thì một thường phạm. Anh em tù chính trị còn sáng
kiến lấy chăn chiên trùm lên mảnh chai cắm trên bờ tường - phòng đứt tay chân
và trùm lên dây điện - tránh bị giật. Sau khi đã thỏa thuận với Cầm Văn Dung,
danh sách vượt ngục được lập. Ông Nghĩa được ông Bình giao nhiệm vụ bảo vệ đồng
chí Trần Đăng Ninh...
Và trong đêm 11/3, các đồng
chí Trần Đăng Ninh, Vũ Kỳ, Lê Trọng Nghĩa, Vũ Tuân, Lê Tất Đắc, Nguyễn Văn Kha,
Châu Ký, Nguyễn Chương, Minh Chính... đã thoát ra ngoài từ trại thường phạm theo
đường "thăng thiên". Sau khi Cầm văn Dung thoát ra ngoài, cánh thường phạm
không còn giữ được trật tự, tranh nhau trèo lên mái nhà làm ngói vỡ. Quân Nhật
phát hiện đã nổ súng. Lối này bị lộ...
Đợt vượt ngục đầu tiên tuy chưa giải thoát được nhiều
nhưng có tác dụng động viên anh em tiếp tục vượt ngục. Hơn nữa có thể thấy,
lý tưởng cách mạng giải phóng dân tộc
của anh em tù chính trị đã cảm hóa được những người có ý thức trong cánh thường
phạm. Riêng Cầm Văn Dung sau khi thoát ngục tham gia Việt Minh; khi Khu tự trị
Tây Bắc thành lập, ông là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc.
Dùng phép "độn
thổ" chui cống ra ngoài
Khi còn học ở Trường dòng Hoàng Nguyên, ông Bình đọc
nhiều sách kiếm hiệp, trong đó có kể những cuộc trốn tù theo đường hầm dưới
lòng đất. Lúc bị giam ở Ninh Bình, ông đã có ý định vượt ngục theo đường cống.
Ý nghĩ này chợt đến khi đang lang thang trong sân nhà tù và nhìn thấy cái nắp
cống bê-tông có gắn vòng thép.
Cụ Nguyễn Huy Hòa (ảnh 1961). |
Ông Nguyễn Huy Hòa, sau này là Hiệu phó Trường Tuyên
huấn Trung ương, sắp tròn 90 vẫn giữ vẻ hóm hỉnh: "Anh Cử thì ở tù Sơn La về. Còn tôi bị bắt từ lúc còn ở tuổi thiếu
niên, từng bị giam ở Trại J. Lúc bấy giờ đã có ông mãnh nghịch ngợm, thử mở nắp
cống, rồi chui xuống xem "âm phủ" ra làm sao. Nhưng lần mò một lúc phải mau
chóng chui lên vì dưới đó tối om, ẩm thấp, bẩn thỉu, hôi thối.
Khi anh Bình đưa ra ý tưởng
vượt ngục theo đường cống ngầm, có anh băn khoăn: Đường cống hẹp quá, khó chui
lọt. Nhưng anh Bình nói gần như chỉ thị: "Đừng đoán mò như thế, cứ đi xem thử
rồi về báo cáo lại. Không được bàn chùn!". Vậy là tôi cùng Vân và Cử nhất trí
thử một lần. Tôi và Cử nhỏ người nên xung phong chui xuống cống, còn Vân ở lại
đậy nắp cống và canh chừng. Sau chừng tiếng đồng hồ bò, trườn trong lòng cống,
2 người đã thấy được ánh sáng, đó là cửa cống. Ghé mắt qua khe thấy chân người,
bánh xe đạp lăn qua và tiếng động của đường phố. Thử lấy đầu đội lên thì thấy
nắp cống chuyển dịch. Cả 2 khẳng định đường cống nhà tù dẫn ra phố. Yên trí đã
có lối thoát, cả 2 quay trở lại. Vân thấy ám hiệu, chạy ra mở nắp cống. Thời
gian cả đi và về hết chừng gần 2 tiếng. Ba anh em chạy đi tìm anh Bình...".
Ngay sau đó, 3 đồng chí báo cáo với ông Bình đã tìm được
đường vượt ngục tại Trại J. Trước kia tại đây giam tù vị thành niên, hiện đang
giam tù nhân sắp mãn hạn. Nơi đây rất vắng vẻ...
Trần Văn Cử (ảnh mật thám Pháp chụp 1943). |
Sau khi đường trèo tường bị
lộ, anh em ở lại suy nghĩ về phương án chui cống với phỏng đoán: nước thải phải
chảy xuôi, thoát ra một hồ lớn hay ra sông Hồng; vậy cứ theo đường nước thải là
có thể thoát... nhưng phải đề phòng có rào cản. Như vậy phải chuẩn bị một bao
diêm và một thanh sắt để mỗi khi đến chỗ giao nhau của đường cống thì bật diêm
nhìn dòng nước chảy mà đi, còn gặp rào cản thì dùng thang sắt mà phá, riêng khi
bật nắp cống lên thì phải dùng đến xà beng. Xà beng và thanh sắt dày 3cm, dài
40cm nhờ giao dịch với cánh thường phạm mà có. Sợ cống có đoạn to đoạn bé, tinh
thần người đi "tiền đạo" phải hăng hái nhưng vóc người phải nhỏ. Đúng như dự
kiến, từ cống cái tôi và anh Hòa đã gặp đoạn cống nhỏ, ngập đầy phân, phải
trườn người bằng cùi tay và dùng bàn chân đẩy. May nhất là không gặp rào cản...
Khi chui lên khỏi cống, một số tù chính trị và thường phạm nhìn thấy, đổ
xô lại hỏi nhưng cả 2 lắc đầu: "Gay go lắm. Tắc. Chả ăn thua gì". Chờ khi mọi
người tản ra, chúng tôi mới nháy mắt báo Vân: "Đi được rồi! Thấy cả xe đạp chạy
trên đường...".
Cụ Nguyễn Tuân (ảnh 1964, mất 2007). |
Ông Hòa kể tiếp:
"Tối 12/3, khoảng 8 giờ, anh Bình phát lệnh: "Mở nắp cống!". Nhóm đi đầu "lĩnh
ấn tiên phong" có anh Bình, Phan Vân, Nguyễn Tuân do tôi dẫn đường. Trước giây
phút làm phép "độn thổ", anh Bình còn đùa: "Sống thì nhớ, chết thì giỗ giờ phút
này!"...
Lần mò theo đường cống hôi
thối, chen lẫn chuột bọ, phân người. Quần áo sạch phải đội lên đầu, có lúc phải
sát mặt xuống lòng cống mà bò. Gần tiếng đồng hồ mới lần ra cửa cống, tôi bật nắp,
vọt lên; theo sau là anh Bình, anh Vân và anh Tuân. Lên đến nơi mới biết cửa cống
nằm trên hè đường Bông Nhuộm, chếch bên kia là vườn hoa Mê Linh; từ đây thấy rõ
hai tháp canh ở hai góc nhà tù có lính Nhật đứng gác, sau lưng là bức tường cao
cắm đầy mảnh chai của nhà tù nằm dọc đường Quán Sứ. (Tiếc là ngày nay bức tường
ấy không còn!). Cũng may đang chiến tranh, không ai ra phố vào ban đêm nên không
lộ. Đậy lại nắp cống rồi anh em chạy qua đường, chui vào hầm tăng-xê tránh máy
bay Mỹ ở vườn hoa, tạt nước mưa còn đọng rửa qua rồi thay quần áo. Anh Bình lấy
cái khăn quấn lên đầu che đi cái đầu trọc. Xong xuôi, bốn anh em đi tách r
a, giả
làm người làm công cho Sở Thùng mới đi dọn xí về. Bà con thấy hôi hám thì tránh
xa. Ra tới ga Hàng Cỏ rồi theo Khâm Thiên về Thái Hà Ấp. Ngay trong đêm, nhóm
chúng tôi về đến làng Vạn Phúc, Hà Đông nơi cơ quan Thường vụ Xứ ủy đóng. Các
nhóm sau có Trần Văn Cử, Nguyễn Cao Đàm, Đỗ Mười, Nguyễn Thanh Bình...".
Cụ Phan Vân (ảnh 1956, mất 199...). |
Thành công của cuộc "độn thổ" này là cuộc vượt ngục
của tập thể tù chính trị tù Hỏa Lò nhưng 3 đồng chí Phan Vân, Nguyễn Huy Hòa,
Trần Văn Cử là những người có đóng góp
quan trọng, tìm ra con đường đặc biệt này.
Những bạn tù sau đấy và... ngày hôm nay
Anh Kháng Chiến tiếp lời:
"Bạn tù của cha tôi cho đến hôm nay còn lại các cụ Nguyễn Huy Hòa, Trần Văn Cử,
Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thị Phúc Hằng... tuổi họ đều đã 90. Thật cảm động, sáng
1/9/2008, lão đồng chí Nguyễn Huy Hòa gọi điện báo đã đọc Hà Nội Mới ra ngày
31/8: "Anh ạ, có bài viết về cuộc vượt ngục năm ấy. Nhưng số anh em "độn thổ"
không phải là 80 mà phải cải chính thế này: Hàng chục năm sau Ban Liên lạc tù
Hỏa Lò tổng kết lại mới biết số tù chính trị vượt ngục theo đường cống ngầm
trong các đêm từ 12 đến 16/3/1945 là 140 người (trong đó có cả vài thường phạm)...".
Sau hai ngày nghỉ ngơi, ông
Hòa được giao về Xứ uỷ làm liên lạc, là người dẫn đường cho ông Bình về Chiến khu Hòa-Ninh-Thanh (Đệ Tam Chiến
khu), ông Phan Vân về làm bí thư tỉnh Hòa Bình, ông Nguyễn Tuân về huyện Gia
Lâm (ngày ấy thuộc Bắc Ninh), còn ông Cử về tham gia khởi nghĩa ở Nam Định. Tháng 8/1945, khi lãnh đạo Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và
các tỉnh Bắc bộ, ông Bình gặp lại ông Lê Trọng Nghĩa được Trung ương bổ sung
cho UBKN Hà Nội.
Ông Hoà không quên câu chuyện vui: "Hôm 21/8/1945, tớ
gặp lại ông Bình ở Hà Nội. Ông ấy hớn hở nói: "Tao vừa mới gọi điện cho chúng
nó xong". "Gọi cho ai hả anh?", tớ thắc mắc. "Gọi cho tỉnh trưởng các tỉnh ấy.
Tao bảo chúng nói, lập tức phải đầu hàng Cách mạng, nếu không sẽ bị xử tử!".
Hai anh em cười hân hoan. Vậy là số tù chính trị vượt ngục Hỏa Lò đã bổ sung
lực lượng và có những góp phần đáng kể vào thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở Hà
Nội và các địa phương".
Trước khi ngừng máy, ông đưa ra câu kết thú vị: "Cuộc vượt ngục đã thành công một cách thần
kì nhờ "ba cái có": anh em tù chính trị có lòng dũng cảm, có mưu trí,
sáng tạo và còn có cả máu mạo hiểm!". Một bài học quý cho thế hệ trẻ
ngày hôm nay!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.