Có
lẽ ít ai trong lính ta từng phải đi quét tầu? Vậy “quét tầu” là gì
và vì sao phải đi quét tầu? Chuyện lạ đấy!
Thiếu tướng Henkel và trung tá Dobrig với sĩ quan VN đêm tiệc chia tay, 8/1988. |
Đi
học
Tháng 10 năm 1986, sau 5 tháng ròng
“mài đít quần” học tiếng Đức ở Đội 9 (Đông Anh) thuộc Đoàn 871, dưới
cái nắng nóng khủng khiếp, sau kì thi sát hạch rồi học chính trị ở
Gia Lâm, sau những “thanh lọc” thì tôi cùng Nguyễn Thắng (khóa 3, công tác tại
BTTM, con chú Nguyễn Khai), Võ Quốc Tấn (khóa 3, Bộ tư lệnh TTLL, con bác Võ Chí Công), Nguyễn Anh Tường (khóa
2, Cục Bảo vệ, con bác Nguyễn Chánh) và Nguyễn Văn Hòe (Viện
KTQS) có tên trong danh sách đi thực tập tại Viện Tự động hóa chỉ huy
IMAT (Institut fur Mechanisierung und Automatisierung der Truppenfurung) của
QĐ quốc gia Đức ở Dresden. Cũng phải “đi đêm” với đại uý trợ lí Nguyễn
Văn Bẩm (Cục Cán bộ) mới moi sớm được những thông tin về chuyến đi.
Sau năm học tiếng ở Naumburg, Halle, cuối
hè năm 1987 chúng tôi về Dresden. Trung tá Hải quân Dobrig, phụ trách học viên
sĩ quan Việt Nam tại IMAT, xuống đón. Chiếc xe Robour màu xanh rêu đưa chúng
tôi theo đường cao tốc Autobahn về Dresden.
Dresden được sông Elbe chia đôi: thành phố
cổ Altstadt và thành phố mới Neustadt. Viện IMAT nằm ở Neustadt, cạnh Bảo tàng
QĐ, xa trung tâm
khoảng chục bến xe điện. Còn ở Altstadt có nhiều công
trình cổ nổi tiếng như Bảo tàng tranh Swinger, Nhà thờ Marien Kirche (từng bị
ném bom sập đổ năm 1945 nay được giữ lại làm chứng tích chiến tranh), Nhà hát
Oper Haus…
Trước đoàn chúng tôi đã có một vài khóa
sang thực tập từ giữa những năm 1970, trong đó có Nguyễn Quang Bắc (khóa 5),
Nguyễn Anh Minh (khóa 3), Lê Tự Thành và Hoàng Minh Nghĩa (khóa 4). Tại
đây còn có Học viện quân sự Frideriech Engels, ở đó đợt này Quang Bắc sang làm
Doktor B (Tiến sĩ KHKT) và Minh “cận” (Học viện KTQS) làm Doktor A.
“Tin học hóa”
đang là mốt. Lúc bấy giờ, QĐ quốc gia Đức mới có vài chiếc computer 16 bit dùng
ở BTTM trên Berlin. Viện IMAT tuy là nơi dạy về tự động hóa cho toàn quân nhưng
vẫn chỉ có những máy tính lớn, to như cái bàn làm việc (nhưng so với MINSK32 đã
nhỏ hơn hàng chục lần!).
Viện IMAT nằm
trong khu nhà cổ 4 tầng, qua một con đường là tới tòa nhà của Viện Kiểm sát
quân sự Dresden. Trên tầng 5 là kí túc xá dành cho sĩ quan Đức về tập huấn và
sĩ quan Việt Nam. Vợ chồng bà Koeler là người chăm lo đời sống, dọn dẹp nhà cửa
cho chúng tôi.
Sáng sáng,
chúng tôi đi tắt qua đường, vòng qua Bảo tàng sang nơi làm việc. Trong Bảo tàng
lưu giữ nhiều kỷ vật về lịch sử QĐ quốc gia Đức. Mặt tường ngoài còn lỗ chỗ những vết
đạn từ năm 1945.
Vui nhất là
những ngày đông, tuyết trắng phủ dày, dân Đức thấy mấy chú sĩ quan châu Á mặt
non chọet, khoác áo ca-pot với đầy đủ quân hàm, quân hiệu, hiên ngang bước qua
đường.
Và đi… cày
Sang Đức thấy
đời sống vật chất của dân quá dư thừa, (chúng tôi coi DDR là “thiên đường” của
CNXH!); còn nước ta “vừa trong gian khó chui ra” với 10 năm “bao cấp” cực kì
vất vả. Cuộc sống là những gì hết sức cụ thể; nên anh nào cũng ý thức được phải
tiêu pha tiết kiệm, nhịn ăn nhịn mặc, giành giụm để “có cái” mang về nuôi vợ
nuôi con. Chuyện đi Tây buôn thuốc, mua phim, giấy ảnh, nồi áp suất, bàn là, xe
đạp… gửi về bán ở Việt Nam đã được biết và lần này là cơ hội để nghĩ ra “mẹo”
kiếm tiền.
Nghe anh em
đi trước bày kinh nghiệm: ở Depot xe lửa Dresden có một việc làm ra tiền vào
ngày nghỉ là “quét tầu” vì những ngày đó dân Đức không đi làm. Lính Cộng “đếm
cua trong lỗ” với phép tính: mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 8 ngày
Wochendende (thứ bảy, chủ nhật) và tiền công 30 Mark/ngày, nếu chịu khó “cày”
hết (không đi chơi đâu cả) thì cũng “gặt” được 2880 Mark – mua được “con Kic”
(xe máy Mokic) mà không phải bỏ tiền ăn sáng và ăn trưa (vì hôm đó đã được
Depot “bao”).
Chúng tôi hớn
hở mò ra ga ngay sau tuần đầu tiên. Đăng kí đơn giản, lính cũ dẫn lính mới đến
gặp đốc công trình Student Ausweiss (thẻ sinh viên) là xong. Có mấy ai làm việc
này trừ mấy chú châu Á. (Ở dây gặp cả mấy cậu Bắc Triều Tiên mang theo sâm Cao
ly chào bán). Riêng cánh quân sự phải mượn thẻ sinh viên vì chỉ được cấp thẻ
nhà binh. (Lúc này cánh nghiên cứu sinh đã tìm ra “cửa mới’, cứ thứ bảy lại
ngược tầu lên Berlin lấy lại hàng của nhân viên Sứ quán mua ở Intershop (rượu
Napoleon, xà phòng Camay, thuốc lá Malboro…) về “luộc lại” cho anh em lao động
xuất khẩu. Việc đó “mầu” hơn và ra dáng “doanh nhân” nên anh em bỏ việc quét
tầu. Không những vậy, họ còn cho mượn luôn thẻ sinh viên mà không ra bất cứ
điều kiện gì). Còn mặt mũi dân châu Á ta ai cũng giống ai, tóc đen mũi tẹt, bố
thằng Tây cũng không phân biệt được. Và chỉ phải trình thẻ lần đầu (bên đó
không có chuyện lừa đảo như ở ta).
Đồ nghề đi
làm (xô chậu, chổi, giẻ lau…) có sẵn ở Depot, chỉ phải mang theo quần áo lao
động. Cánh IMAT mặc luôn bộ “svet-tô-măng” thể thao quân sự bên trong, đến nơi
thì cởi quần áo ngòai ra và đi làm. (Đốc công nhìn thấy phát hiện ra anh em bộ
đội nhưng cũng bỏ qua vì đang thiếu lao động!). Trước khi làm cũng được phổ
biến phải tuyệt đối chấp hành an toàn lao động vì tầu ra vào thường xuyên, rất
nguy hiểm, nhất là “các bọ” lại là dân ngọai quốc.
Theo anh em,
tôi cũng xách xô, lấy nước xà phòng, cầm giẻ lau, nhảy lên tầu. Không như ngoài
sân ga khẽ bước chân là tới đất, còn ở Depot thì phải nhảy lên nắm lấy tay cầm
kéo toàn thân lên. Tối về ê ẩm khắp người. Một đoàn tầu giao cho bốn “thợ”. Cứ
lên là thoăn thoắt làm để nhanh giải phóng cho tầu xuất bến rồi chuyển ngay
sang đoàn tầu khác mới về. Việc đầu tiên là lấy túi thu hết rác trong thùng rác
và trong gạt tàn thuốc lá, gom ra đầu toa. Mùi thuốc lá dính vào quần áo thì
hôi khủng khiếp. Sau đó là kì cọ nhà vệ sinh Toilette, mà đã là chỗ ấy thì đâu
cũng bẩn (tất nhiên dân Tây có văn minh hơn ta nên việc “ị cho đúng lỗ…” là
việc nhỏ!) rồi quét toa, lau sàn.
Sáng thứ bảy
dọn chuyến tầu về chiều tối thứ 6 thì còn đỡ, chứ sáng chủ nhật mà dọn chuyến
tàu về đêm thứ bảy, chở cánh cổ động viên bóng đá về, thì thôi rồi! (Dân Đức
thường đi ủng hộ câu lạc bộ của mình bằng tầu hỏa). Các Hooligan dù thắng hay
thua cũng phải nốc cho đầy bụng bia rượu rồi hò hét, thậm chí còn phang nhau
đến tóe máu mặt. Các chú uống say rồi nôn ọe cả ra sàn tầu, khi đi giầy lên cứ
dính lép nhép. Cả toa nồng nặc một mùi hôi khó tả. Khẩu trang phải bịt thường
xuyên. Chỉ có nước lau sàn đặc chủng mới làm sạch được. Xong việc thô là tiếp
tục lau ướt cửa kính, bàn ghế. Làm xong toa này không kịp nghỉ phải vượt qua
toa kề bên của “đồng nghiệp” để vệ sinh toa tiếp, theo kiểu cuốn chiếu. Trên
vai xách bao tải “chiến lợi phẩm” - vỏ chai bia và nước ngọt do khách vứt lại
trong thùng rác. (Dân Đức vốn tiết kiệm nên thường cho vỏ chai của mình vào túi
mang về bán lại cho các của hàng, vì tiền chai đã tính cả vào tiền bia). Nhưng
bọn đã say thì vô tư, quăng hết những gì có thể quăng được. Vậy là ta có thêm
khoản thu nhập “ngoài lương”(!). Khi kết một đoàn tầu thì xách bao tải rác vứt
vào thùng và địu theo bao tải “chiến lợi phẩm” lên đoàn tầu mới.
Cả sáng, bốn
chiến sĩ cũng “đi” được hai đoàn tầu. Nhìn đồng hồ thấy 12 giờ là tự giác kéo
về căng-tin ăn trưa. Một đĩa súp, một miếng sườn với ít khoai tây nghiền là
xong bữa. Nước ngọt uống phải trả tiền. Ngửa cổ đón những giọt Cocacola có ga
hay nước chanh chai đầu tiên mới thấy hạnh phúc làm sao! Sau đó ngả lưng ra ghế
chợp mắt 15 phút. Đúng 1 giờ chiều, tiếp
tục công việc đến 4 giờ 30 thì nghỉ. Anh em lếch thếch kéo nhau ra bến tầu về
nhà. Chiều chủ nhật tầu điện vắng khách nên mấy “chú Cộng” mang theo bao tải
chai lọ cũng chẳng gây chú ý. Hơn nữa ở bên đó việc ai người nấy làm chứ không
có “xăm xoi” như ở ta. Vả lại lao động là vinh quang mà ta lại đi làm cho tụi
Tây được nghỉ ngơi ở nhà thì quá là “quốc tế vô sản”!
Chiều về sau
khi tắm nước nóng cho hết mệt và hết mùi hôi thối của đường tầu, liền phi ra
bếp, mở tủ lạnh lấy ra chai bia Pilsner, ngửa cổ tu ừng ực. Tôi, Nguyễn Thắng, Võ
Quốc Tấn “ăn chung một bếp”, thay nhau cắt cử đi chợ nấu cơm. Cổ cánh, mề gà
vịt, móng giò heo (những thứ mà dân Đức “cá chê”, ngoài cửa hàng bán rẻ như
bèo) mua sẵn được cho vào nồi luộc chín, mang ra nhâm nhi. Anh Tường tửu lượng
kém nhưng cũng cố tập uống. Anh mua thêm một “nút” chai để stop khi đã đỏ mặt.
Bia lạnh theo công nghệ Plzen của Tiệp rót ra ly sánh vàng, tu liền một hơi,
bọt bia dính quanh mép. Cuộc đời sướng đến thế là cùng!
Cuối tháng
cộng sổ, mỗi anh cũng “ẵm” gần 200 Mark. Cầm trên tay chừng ấy tiền, sung
sướng! Tiền tiêu vặt của sĩ quan Việt Nam được 350 Mark/tháng, cộng thêm khỏan
này cũng là thu nhập không nhỏ. Vậy phải tìm cách tăng thêm ngày giờ lao động
để tăng thu nhập cho anh em!
Mẹo vặt có lý
Năm 1988,
“bức tường Berlin” chưa đập bỏ. Các sĩ quan Đức chỉ được nghỉ trọn hai ngày thứ
bảy mỗi tháng, hai ngày còn lại phải làm việc buổi sáng. Nghĩa là lính ta cũng
phải đi làm như họ. Vậy phải làm sao để anh em đi làm cả 4 ngày thứ bảy trong
tháng?
Sau năm học
tiếng, Võ Tấn và tôi về ngôn ngữ có phần “dài” hơn. Ngày ấy, Tùy viên
quân sự chỉ định Tấn làm bí thư chi bộ còn Quốc là trưởng đoàn sĩ quan tại IMAT
(nhưng lương thì vẫn rứa!). Hai tên bàn nhau (có thể coi đây là “nghị quyết chi
bộ”) xin phép cho đoàn mỗi sáng thứ bảy được sang Học viện Engels đi thư viện
đọc sách và gặp anh em nghiên cứu sinh học hỏi thêm. Khi đó Doktor B Quang Bắc
danh nổi như cồn, nhất là đang làm đề tài về “Robot quân sự thông minh”. Vừa
nghe đề nghị, Thiếu tướng Viện trưởng Henkel (tiếng Đức là “cái quai”) “OK”
ngay. Vậy là có thêm hai ngày thứ bảy đi “cày”. Thỉnh thoảng, hai “sếp” cử nhau
“gác gôn” để bạn vào thấy vắng, có hỏi thì còn có người trả lời.
Chuyện chúng
tôi đi quét tầu là vậy.
Hoàng Quang
cùng Việt Thắng (Trỗi khóa 4, lính BTTM) và anh Hỗ Sĩ Hậu từng cùng tập trung
học tiếng Đức để đi học “quản lí kinh tế” nhưng lớp không mở. Hè năm 1988, có
đợt cử cán bộ QĐ đi quản lí lao động, Quang đăng kí sang Đức. Gặp nhau ở trời
Tây, mỗi lần chén chú chén anh, được nghe kể chuyện lính Trỗi quét tầu, Quang
cười chảy cả nước mắt vì thương bạn. Và dù bỏ học đi quét tầu nhưng cả năm anh
em đều bảo vệ tốt đề tài của mình.
Mãn khóa,
đóng thùng về nước. Năm thùng hàng to tới 3 - 4 khối phơi ngay sân Viện Kiểm
sát quân sự. Cứ chiều tối chúng tôi mới đem hàng từ trên tầng 5 xuống đóng. Bà Koeler
và cánh sĩ quan Đức đi qua có nhìn thấy cũng tỏ ra thông cảm “nước chúng mày
còn nghèo!”. Trong mỗi thùng cũng có ít nhất dăm xe máy, chưa kể xe đạp Diamant
cùng xích líp, sơn nước, đường kính v.v… Đó là những gì sau đó biến thành tiền
của, vật chất để nuôi dưỡng con cái chúng ta lớn khôn, trưởng thành như ngày
hôm nay.
Sau này nhờ
vợ chồng cô em gái của Nguyễn Thắng mà 2 chúng tôi có một nghề mới - lắp ráp ốc vít cho các bảng
điện điều khiển điện tử. Nhưng chuyện “quét tầu” mới thực sự là “công việc làm
ăn đầu tiên” không thể quên! Việc này không ít người đã trải qua, và có
người trải qua nhưng không phải ai cũng dám kể. (Sĩ mà!). Nay viết lại cho
mọi người cùng biết và cũng là “lời tạ tội muộn màng” với các sĩ quan Đức thân
thiết. Vì, chúng tôi - đã có - một thời - nói dối - các bạn!... Song, nghĩ cho
cùng thì đó cũng chỉ vì cuộc sống!
Chuyện nhớ lại sau 20 năm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nếu bạn không đăng kí mà muốn có comment thì sau khi viết nhận xét (nhớ đọc lại 1 lượt) và điền tên (hoặc nickname) của mình, rồi click vào mục "Ẩn danh" ("Chọn 1 nhận dang" ở phía dưới). Sau đó gửi nhận xét.